Nhạc nền

** *
Photobucket* Photobucket *
PHÔI PHA

31 tháng 7, 2012

THIÊN CHÚA ĐÁP ỨNG CHO SƯ ĐÓI KHÁT CỦA CON NGƯỜI

CHÚA NHẬT XVII TN B: Người ta cứ ngỡ rằng thế giới này tiến bộ, phát triển thì sẽ đẩy lui được nạn đói nghèo, và nếu chỉ nhìn vào bộ mặt bên ngoài của một một quốc gia, một thành phố thì người ta chỉ nhìn thấy những sự hào nhoáng, nhưng thực tế cho thấy, hiệt nay trên thế giới mỗi ngày có cả hàng triệu người chết vì đói, thiếu lương thực và các nhu cầu cần thiết hàng ngày đặc biệt là tại các nước thứ ba hoặc Châu Phi.
 Ở một số quốc gia khác như Bắc Hàn, thì chính phủ lại dồn hết mọi nguồn lực quốc gia vào việc trang bị quân sự hoặc các chương trình chế tạo vũ khí hạt nhân, trong khi đó dân chúng không có lương thực đang phải chết đói. Người dân tại Bắc Hàn không chỉ đang thiếu đói về lương thực, nhưng còn thiếu đói về mọi mặt thông tin, tư tưởng, văn hóa và đời sống tinh thần nữa.
Thưa quý OBACE, ngày nay con người đang phải đối diện với nhiều hình thức đói khác, đói về tinh thần, đói thể xác, đói tình yêu thương, đói khát hạnh phúc. Khác với các vua chúa, các nhà cầm quyền ở trần gian, là những người tìm kiếm sư giàu sang địa vị quyền lực cho bản thân và gia đình, Tin Mừng hôm nay giới thiệu cho chúng ta Đức Giêsu, một vị Thiên Chúa yêu thương chăm lo cho cả thể xác và tâm hồn con người, Đấng thỏa mãn cơn đói của nhân loại.
Trong Cựu Ước, tiên tri Elisa tin vào quyền năng của Thiên Chúa, ông đã ra lệnh cho học trò mình lúc ấy có vài cái bánh nhỏ trong giỏ, đem ra phân phát cho dân chúng, thì chú học trò đó cũng rất băn khăn, với số bánh nhỏ nhoi này thì làm sao nuôi được cả trăm người. Thế nhưng Thiên Chúa đã dùng một số bánh nhỏ nhoi ấy và biến thành một bữa tiệc nuôi dân chúng ăn no đến dư thừa như Lời chúa phán.
Chúng ta còn nhớ, Tin Mừng tuần trước giới Thiệu cho chúng ta thấy Đức Giêsu là một mục tử chạnh lòng thương khi thấy dân chúng bơ vơ như những con chiên không có người chăn, thì hôm nay, Ngài thấy một đám đông dân chúng, đang đói vây quanh Người, Người đã chữa lành các căn bệnh thể xác và chữa trị cả những vết thương trong tâm hồn cho họ, Ngài giảng dạy họ nhiều điều và Đức Giêsu không nỡ để họ ra về với cái bụng còn đói vì sợ họ sẽ xỉu dọc đường, Ngài đã đã biết Ngài sẽ phải làm gì.
Dù biết việc mình sắp làm, nhưng Chúa Giêsu vẫn muốn cho các tông đồ có cùng một suy nghì, cùng một cảm nhận, và có cùng một trái tim chạnh thương như Chúa, nên Ngài mới đặt vấn đề với với các ông: Ta mua đâu được bánh cho những người này ăn? Cũng giống như người học trò của Êlisa, Philipphê khi được hỏi, thì ông cũng đã thưa với Chúa về sự giới hạn bất lực của các tông đồ trước một nhu cầu lớn lao như vậy: Thưa Thày có mua đến hai trăm quan tiền cũng chẳng đủ cho mỗi người một chút! Điều đó cũng cho thấy, con người dương như luôn bó tay chịu thua trước nhu cầu của anh em đồng loại, về phía Thiên Chúa, Ngài chỉ thử lòng quảng đại của con người, và Ngài muốn cho con người và các môn đệ của Ngài không thể thoái thác trách nhiệm, mà cần phải có một cái nhìn chạnh thương để thấy nhu cầu đói khát của anh em, phải có một trái tim yêu thương để có thể quan tâm nhiều hơn đến nhu cầu của đồng loại và tim cách, đưa ra giải pháp để giúp đỡ họ, dù đó chỉ là một giải pháp nhỏ nhoi, chứ không thể nhắm mắt làm ngơ, cũng không thể để cho họ đói lả dọc đường.
Simin Phêrô đã chợt nghĩ ra một giải pháp nào đó nên đã thưa với Chúa: ở đây có một em bé có năm chiếc bánh lúa mạch và hai con cá, nhưng với ngần ấy người thì thấm vào đâu? Rõ ràng là Simon Phêrô cũng không tin vào giải pháp của mình, mà ông đã đưa giải pháp ấy cho Chúa, còn chính ông thì thấy rằng năm chiếc bánh và hai con cá thì không là gì so với đám đông như thế. Về phía Chúa Giêsu, Ngài chỉ chờ đợi có như thế, Ngài chờ đợi ở sự quảng đại đóng góp của con người vào công việc lớn lao Chúa sắp làm. Thiên Chúa luôn dành một chỗ để cho con người có thể cộng tác vào chương trình của Ngài, Chúa chỉ cần một sự quảng đại nhỏ bé của một em nhỏ, Chúa chỉ cần chúng ta góp năm chiếc bánh và hai con cá, là phần ăn của riêng mình, phần ăn riêng của một em bé, thì Ngài sẽ biến sự nhỏ bé ấy thành nhữnh việc lớn lao, biến phần ăn riêng của một người thành phần ăn chung cho mọi người.
Chúa Giêsu cầm lấy bánh tạ ơn rồi trao cho các môn đệ để các ông phân phát cho dân chúng, số đàn ông chừng 5 ngàn người, ai muốn ăn bao nhiêu tùy ý, và họ đã ăn no nê. Phép lạ đã xảy ra, từ năm con chiếc bánh và hai con cá nhỏ đã nuôi hơn năm ngàn người, Đức Giesu, một lần nữa lại muốn cho các tông đồ cùng với Ngài, và qua tay các tông đồ phân phát lương thực cho dân chúng và họ đã ăn đến dư thừa tới mười hai thúng.
Thưa quý OBACE, Phép lạ hóa bánh ra nhiều hôm nay là hình ảnh báo trước phép lạ Thánh Thể mà Chúa Giêsu sẽ thực hiện sau này, Ngài đã biến những tấm bánh làm từ nhữ hạt lúa mì nhỏ bé, chất rượu làm từ những trái nho, cùng với lao công mồ hôi khó nhọc của con người trở thành mình máu của Người, là lương thực nuôi dưỡng toàn thể nhân loại. Mình thánh Chúa được ban tặng phân phát để nuôi dưỡng cả thể xác lẫn linh hồn nhân loại qua mọi thời, và mọi người được mời gọi để lãnh nhận.
Tuy nhiên đón nhận tấm bánh của Chúa, thì đồng thời cũng đòi mỗi người phải đón nhận một cách xứng đáng và sống theo những đòi hỏi của Chúa, theo Thánh Phaolô kêu gọi: Anh em hãy sống xứng đáng với ơn kêu gọi mà Thiên Chúa đã ban cho anh em. Hãy ăn ở khiêm tốn hiền từ nhẫn nại, lấy tình bác ái mà cư xử với nhau đồng thời cố gắng xây dựng tình hiệp nhất. Điều đó có nghĩa là chúng ta không thể trốn tránh hoặc từ chối anh chị em, trái lại Chúa đang nói với chúng ta: Chính anh em hãy cho họ ăn. Chính chúng ta với hết khả năng và với hết điều kiện Chúa ban, quảng đại đem đến cho anh em, phần còn lại ít ỏi của mình, Chúa sẽ làm nên những phép lạ lớn lao, Chúa sẽ dùng sự quảng đại đó để nuôi sống nhiều người.
Thưa các bậc làm cha mẹ, cuộc sống gia đình có rất nhiều khó khăn, mỗi gia đình lại có những khó khăn riêng, có những gia đình rất đầy đủ vất chất, mà con cái và các thành viên đang phải cảnh đói khát và bơ vơ. Nhiều gia đình dư tiền của nhưng lại đói một bầu khí êm ấm thuận hòa, nhiều gia đình dư của ăn nhưng lại đang thèm khát có một bữa cơm chung thân mật, nhiều gia đình chăm ấm nệm êm, nhưng các thành viên đang chịu cảnh lạnh lùng, và bị bỏ rơi ngay trong gia đình mình, hoặc phó mặc con cái cho xã hội, nhiều đứa con được cho tiền dư thừa nhưng lại thiếu tình yêu thương và thời giờ chăm sóc của bố mẹ…, những cái đói như thế đang đầy dẫy trong các gia đình, mà chỉ có các bậc làm cha mẹ mới là người giải quyết được những cơn đói ấy.
Còn các bạn trẻ hôm nay cũng đang bị bơ vơ và đói khát, đói sự thật, nhiều người đang đói những tấm gương sáng ở trong gia đình và xã hội, nhiều người trẻ hôm nay đang bơ vơ lạc lõng vì lẫn lộn giữa một rừng tư tưởng và lý luận không biết phải chọn hướng nào, nhiều bạn trẻ khác không có mục đích để sống và phấn đấu, hay nói khác đi là sống không có đình hướng, hoặc là chỉ đặt ra được những mục đích ngắn hạn, phù phiếm mang tính thực dụng, vật chất chứ không tìm được một lý tưởng sống cho xứng đáng là một ngời trẻ; Nhiều người trẻ hôm nay đang đói khát sự giáo dục và hướng dẫn của cha mẹ và những người lớn, chính vì thế mà họ lầm lũi sống với bản năng thú tính của mình, đối xử với nhau như lang sói cắn xé lẫn nhau. Và nhiều bạn trẻ hôm nay no đủ dư thừa về kiến thức và những phương tiện khoa học tiến bộ, nhưng lại nghèo nàn và thiếu thốn trong cách ứng xử nhân ái với nhau, nhiều người khác dư thừa kiến thức và các thứ ăn chơi sành điệu đẳng cấp, mà chỉ thiếu thốn một điều đó là một trái tim nhân ái, thiếu một đời sống đạo đức.
Đó là những tình trạng đói khát của con người và của giới trẻ hôm nay, mà chỉ có Chúa Giêsu là Đấng có thể thỏa mãn những khát vọng thiếu thốn của con người chúng ta. Ngài dùng Lời của Ngài để dẫn lối cho chúng ta tim đạt được chân lý và hạnh phúc, Ngài ban lương thực cho thể xác và nhất là Ngài ban lương thực là Thánh Thể Người ở nơi đây để nuôi dưỡng linh hồn chúng ta. Đến với Người chúng ta sẽ không còn đói khát nữa. Amen

Tác giả bài viết: Lm. Giuse Đỗ Đức Trí

LỜI KHUYÊN THIẾT THỰC

CN 16 B Tin Mừng Chúa nhật hôm nay tiếp nối trang Tin Mừng tuần trước.

Chúa Giêsu sai các môn đệ ra đi truyền giáo. Nay các học trò trở về. Anh em vui mừng kể cho Thầy nghe kết quả những việc đã làm. Chúa chia sẻ niềm vui với các môn sinh và Chúa khuyên nhủ : “Anh em hãy lánh riêng ra đến một nơi thanh vắng mà nghỉ ngơi đôi chút”. Một lời khuyên rất thiết thực.
Chúa Giêsu rất thương các môn đệ. Làm việc nhiều nên cần phải nghỉ ngơi lấy lại sức lực để tiếp tục làm việc. Đó chính là thời giờ tĩnh tâm của các Tông đồ. Trong thinh lặng, mỗi người cầu nguyện, trau dồi nội tâm. 
Thinh lặng là một cõi riêng tư
Một bầu khí yên tĩnh, một thời gian trầm lắng là một cõi riêng tư thật cần thiết cho con người. Thân xác nghỉ ngơi, tinh thần thư giãn, trí óc sáng suốt, tâm hồn bình an. 
 
Giữa những ồn ào của đám đông
giữa những sôi nổi của thành công
và ê chề của thất bại
xin dành một cõi rất riêng cho Giêsu.
 
Giữa những đam mê quay cuồng
giữa những khát khao thèm muốn
và những trói buộc của sợ hãi, âu lo,
xin giữ một cõi rất riêng cho Giêsu
 
Giữa lúc bị cuộc đời từ khước
giữa lúc bơ vơ đi trong đêm mênh mông,
chẳng có ai để cậy dựa,
xin trở về với cõi riêng bên Giêsu,
để một mình ở đó
trầm lắng và bình an.
 
Lm Nhạc sĩ Thái Nguyên suy tư những lời thơ sâu lắng ấy và đã dệt ca khúc: “Một cõi riêng tư”.
Một cõi riêng tư, trong lòng con xin dành cho Chúa.
Một cõi riêng tư, trong lòng con Chúa thương ngự trị.
Chúa là điểm hẹn nơi con phát xuất ra đi dấn thân, cho cuộc đời nhân trần.
Chúa là đỉnh cao nơi con trở lại,để sống trong ân tình, niềm vui phút an bình.
Một cõi riêng tư với Chúa, chan chứa một niềm vui sâu lắng trong nội tâm, niềm vui gặp gỡ Chúa.
2.Chúa Giêsu mẫu gương thinh lặng
 
Chúa Giêsu khuyên các môn sinh hãy sống theo gương của Người. Nhịp sống mỗi ngày của Chúa Giêsu với khởi đầu là cầu nguyện và kết thúc trong tĩnh lặng riêng tư với Cha.Sáng sớm tinh mơ, Người dành thời gian đẹp nhất một ngày mới để cầu nguyện cùng Chúa Cha. Sau đó bận rộn với biết bao công việc: rao giảng và chữa lành thể xác tâm hồn cho con người. Chúa Giêsu thích sự cô tịch và tránh xa đám đông. Người chọn những nơi hiện diện: "Một ngọn núi cao riêng biệt" (Mc 9,2); những bờ dốc thẳng bao quanh hồ phía đồi Gôlăng (Mc 5,1); những bãi biển Phênixi xứ Xyria hay xứ Libăng (Mc 7,24-31); đôi bờ của con thác miền núi gần nguồn sông Giođan dưới chân núi Hécmon (Mc 8,27)…
Nhịp sống mỗi ngày của Chúa Giêsu tạo nên khuôn mẫu cho tất cả các môn sinh trong cuộc sống thường ngày. 
Các môn đệ đi rao giảng Tin Mừng, hoạt động cứu độ con người. Các môn đệ trở về, Chúa khuyên nên nghỉ ngơi trong cầu nguyện. Làm việc và cầu nguyện, sống "nội tâm" và hoạt động "bên ngoài", đó là nhịp sống mỗi ngày của người môn đệ Chúa Giêsu. 
Thinh lặng để sống nội tâm
Ðời sống tâm linh phải được nuôi dưỡng bồi bổ để phát triển. Chúa chính là nguồn mạch đời sống thiêng liêng. Những giờ phút riêng tư thân mật bên Chúa sẽ giúp cho đời sống tâm linh phát triển. Nhờ cầu nguyện, con người mới phát triển quân bình.
Làm việc và cầu nguyện đó là hai nhu cầu của con người. Làm việc để nuôi thân, nuôi gia đình và góp phần xây dựng xã hội.Ðời sống cầu nguyện hỗ trợ cho hoạt động bên ngoài. Nếu chỉ hoạt động bên ngoài, con người sẽ không khác gì máy móc. Nếu chỉ biết phát triển đời sống thân xác, con người sẽ trở thành nô lệ cho vật chất. Nếu chỉ quan tâm tới những nhu cầu vật chất, con người sẽ dễ bị tha hoá, đuổi theo tiền bạc, chạy theo chức quyền. Cầu nguyện giúp nâng tâm hồn lên khỏi nô lệ vật chất. Những giây phút yên lặng bên Chúa giúp ta định hướng cuộc đời. Ánh sáng Lời Chúa giúp ta nhìn rõ tâm hồn mình, biết rõ những sai sót của mình mà sửa đổi. Những lời chỉ dạy của Chúa là những chuẩn mực đạo đức giúp ta sống ngay thẳng, thật thà, lương thiện. Ơn Chúa ban sẽ cho ta sức mạnh để hoạt động tích cực hữu hiệu hơn, để hăng hái dấn thân hơn nữa trên đường phục vụ anh em. 
Các xã hội văn minh, các đô thị luôn chạy theo nhịp sống hối hả của kỹ thuật hiện đại. Con người thời nay dễ bị căng thẳng. Do đó, người ta thường tìm đến với Yoga,Thiền, với các phương pháp dưỡng sinh để tìm sự quân bình, tìm yên tĩnh, muốn trầm lắng nội tâm. 
Vào mùa hè, người ta thường tạm nghĩ công việc, rời nếp sống đô thị náo nhiệt tìm đến nghĩ ngơi nơi vùng quê, miền biển, miền núi. Nô đùa cùng sóng biển cát vàng, hít thở khí trời dịu mát của cao nguyên lộng gió hay hoà vào khung cảnh thanh bình êm ả của đồng quê bát ngát lúa chín vàng… Bầu khí yên tĩnh, thời gian trầm lắng là điều rất cần thiết cho con người. Thân xác nghĩ ngơi, tinh thần thư giãn, trí óc sáng suốt. Từ đó, nhìn lại cuộc sống mình, kiểm điểm, rút ưu khuyết, định hướng cho cuộc sống sắp tới.
Trong lãnh vực tông đồ, thinh lặng cầu nguyện thật cần thiết. Làm việc tông đồ là làm việc của Chúa. Cầu nguyện để biết rõ ý Chúa, biết việc phải làm. Cầu nguyện để múc lấy sức mạnh của Chúa giúp chu toàn công việc. Cầu nguyện để biết khiêm nhường luôn coi mình là dụng cụ trong bàn tay  Chúa. Chỉ khi làm việc trong Chúa, với Chúa và vì Chúa, việc tông đồ mới có kết quả tốt đẹp theo ý Chúa muốn. 
Làm việc phải là kết quả của những giờ suy nghĩ và cầu nguyện. Điều kiện tiên quyết để thành công chính là sự thinh lặng. Từ thinh lặng ta mới có thể nuôi dưỡng những suy tư của mình một cách lâu dài được. Bầu khí thinh lặng giúp ta hồi tâm xét mình thực thi sám hối cách đúng mức. Bầu khí thinh lặng còn giúp cho người khác sống tinh thần cầu nguyện. 
Người Kitô hữu yêu quý những giây phút thinh lặng trong tâm hồn, yên tĩnh ngọt ngào bên Chúa. Người Kitô hữu tìm thấy sự thinh lặng thánh ấy trong nhà thờ, trong những giây phút cầu nguyện và ngay trong tâm hồn mình. “Chỉ trong Thiên Chúa mà thôi, hồn tôi mới được nghỉ ngơi yên hàn” (Tv 61,2). Thinh lặng, cầu nguyện chiêm niệm, hồi tâm luôn mang lại sức sống thiêng liêng cho mỗi người.
Mẹ Têrêxa Calcutta thích thinh thặng và đã dâng lời cầu nguyện tha thiết.
Lạy Thiên Chúa,Đấng ưa thích sự thinh lặng,xin dạy chúng con thinh lặng để ở một mình với Ngài,trò chuyện,lắng nghe và thấm nhuần Lời Hằng Sống.
Xin dạy chúng con thinh lặng nơi con mắt, biết nhắm lại trước những vấp váp của tha nhân,biết quay đi trước những dịp tội gây xao xuyến.
Xin dạy chúng con thinh lặng nơi đôi tai,để nghe được tiếng kêu của người nghèo đói,để khép lại trước những mời mọc của ma quỷ.
Xin dạy chúng con thinh lặng nơi miệng lưỡi,để biết ca tụng Chúa và đem lại an vui cho muôn người,tránh cho mọi lời nói gây đau đớn đổ vỡ.
Xin dạy chúng con thinh lặng nơi trí khôn,để mở ra trước sự thật và khép lại trước dối trá.
Cuối cùng xin dạy chúng con thinh lặng nơi quả tim,để tránh xa mọi ích kỷ,thù hằn,ghen ghét,để yêu mến và ước ao Thiên Chúa trên hết mọi sự. Amen. 
 
 
 
Tác giả bài viết: Lm Giuse Nguyễn Hữu An

Đức Giêsu chạnh lòng thương các đồ đệ và đám đông

Chúa Giêsu phải đối diện cùng một lúc sự hiểu sai của các môn đệ thân tín nhất và sự bơ vơ vất vưởng của đám đông dân chúng.
Bài Tin Mừng hôm nay (Mc 6,30-34) trình thuật phản ứng của Đức Giêsu sau khi Nhóm Mười Hai trở về và kể lại cho Người những gì họ đã thực hiện.
 
“Các Tông Đồ tụ họp chung quanh Đức Giêsu, và kể lại cho Người biết mọi việc các ông đã làm, và mọi điều các ông đã dạy” (c.30). Như chúng ta đã đọc trong bài Tin Mừng của Chúa Nhật trước, Nhóm Mười Hai đã được Đức Giêsu sai đi từng hai người một (6,7). Bây giờ họ trở về sau khi đã kết thúc các hoạt động của mình. Họ kể lại cho Đức Giêsu biết về tất cả những gì họ đã làm, và có lẽ là kể rất sôi nổi, không bỏ sót chút gì. Những điều họ kể, về căn bản, đã được trình bày trong 6,12-13: họ đã rao giảng kêu gọi người ta ăn năn sám hối, họ đã trừ quỷ và họ đã xức dầu chữa lành những người bị bệnh. Chắc chắn là với những hoạt động như thế, họ đã khơi lên trong lòng người dân Do Thái niềm hy vọng phục hưng quốc gia và dân tộc Do Thái. Nhưng tất cả những hoạt động đó đều không đúng với lệnh truyền của Đức Giêsu dành cho họ trong thời điểm này khi sai họ đi.
 
Bên cạnh đó, c.30 còn nói đến một hoạt động khác nữa của các thành viên Nhóm Mười Hai: họ giảng dạy. Đức Giêsu chưa hề sai họ đi giảng dạy. Trong Mc, giảng dạy là trình bày sứ điệp bằng cách lấy cảm hứng và xuất phát từ Cựu Ước. Hoạt động này rất khác với việc công bố sứ điệp. Đức Giêsu không hề trao phó cho ai công việc giảng dạy. Chính bản thân Người cũng chỉ thực hiện việc này khi đối diện với cử tọa toàn người Do Thái và suy nghĩ theo não trạng Do Thái (1,21b; 2,13; 4,1; 6,2; 9,31...). Với những cử tọa có những người không dựa theo Do Thái giáo, Người chỉ “nói” chứ không “giảng dạy” (x. 8,34; 9,35tt...). Khi tác giả Mc nói rằng Nhóm Mười Hai trình bày cho Đức Giêsu “mọi điều các ông đã dạy” (c.30) thì có nghĩa là họ đã giới hạn hoạt động của mình chỉ trong phạm vi Do Thái, tức là không hoàn toàn đúng với chỉ thị của Đức Giêsu. Thay vì tiếp xúc với mọi hạng người, không phân biệt, thì họ lại đã chỉ quanh quẩn trong thế giới Do Thái và củng cố niềm hy vọng Do Thái về việc phục hưng dân tộc.
 
“Người bảo các ông: "Chính anh em hãy lánh riêng ra đến một nơi thanh vắng mà nghỉ ngơi đôi chút" (c.31a). Đức Giêsu đã lắng nghe các ông kể lại mọi sự. Người không khen ngợi các ông lời nào, cũng không đưa ra bất cứ sự chuẩn nhận nào đối với những gì các ông đã thực hiện, thậm chí còn chẳng nói gì đến việc các ông đã thay đổi công việc, không làm như Người đã truyền. Nhưng lập tức, Người bảo các ông lánh riêng ra một nơi thanh vắng, tức là Người muốn ở riêng với các ông mà thôi.
 
Hoạt động mà các thành viên Nhóm Mười Hai vừa thực hiện, như chúng ta vừa nói, đã chỉ giới hạn trong thế giới Do Thái, và do đó, đã bóp méo sứ điệp cứu độ của Đức Giêsu về Nước Thiên Chúa. Điều đó chứng tỏ họ còn rất xa lạ với Đức Giêsu và chương trình của Người. Người đã sai họ đi, trong lần sai đi thứ nhất vừa rồi, là với hy vọng họ sẽ làm mới sự dấn thân đi theo Người. Nhưng họ đã không hiểu đúng ý Người. Bây giờ, Người muốn tìm đến một nơi thanh vắng để nói riêng với họ, khi chỉ có thầy trò với nhau. “Nơi thanh vắng”, tức là “hoang địa”, không chỉ có ý nghĩa chỉ về một nơi chốn địa dư, mà còn có nghĩa bóng, ám chỉ một sự cắt đứt khỏi những giá trị đang chi phối xã hội Do Thái. Đức Giêsu muốn đưa các môn đệ của Người đến “nơi thanh vắng” đó nữa, chứ không chỉ là một nơi chốn theo nghĩa địa dư.
 
“Nghỉ ngơi” (anapauô) không chỉ có nghĩa là một trạng thái tạm ngừng một vài hoạt động để sức khỏe được phục hồi. Hạn từ “sự nghỉ ngơi” được sử dụng trong Is 14,3 (LXX) để nói về sự giải thoát của Thiên Chúa khỏi ách nô lệ Babylon. Tương tự như trong 7,32 và 8,23, ở đây tác giả Mc ám chỉ một bản văn ngôn sứ nói về sự giải thoát khỏi ách nô lệ để cho thấy một tính chất quan trọng của hành động mà Đức Giêsu đang muốn thực hiện cho các môn đệ: Người muốn giải thoát họ khỏi sự kềm tỏa của những lý tưởng Do Thái đang đè nặng trong tâm trí và hoạt động của họ.
 
“Quả thế, kẻ lui người tới quá đông, nên các ông cũng chẳng có thì giờ ăn uống nữa” (c.31b). Tình cảnh của các môn đệ lúc này, quả thực, là khá đặc biệt. Rất nhiều kẻ lui tới tiếp xúc với nhóm và biểu tỏ sự đồng ý với những gì các ông đã dạy và đã làm. Điều đáng ghi nhận là đám đông không tìm Đức Giêsu nữa. Họ tiếp xúc với nhóm các môn đệ, tất nhiên là nhóm có Đức Giêsu được hình dung và trình bày như là vị thủ lãnh đứng đầu. “Kẻ lui người tới” không phải để gặp Đức Giêsu, cũng không đến vì Đức Giêsu như tác giả Mc đã cố ý nhấn mạnh trong những dịp trước đây (1,32; 1,45; 3,7; 4,1; 5,21).
 
Đám đông kéo đến quá đông khiến cho các môn đệ chẳng có thời giờ ăn uống. Tình cảnh tương tự như ở 3,20. Sự ăn uống được nói đến ở đây rõ ràng ám chỉ sự “ăn bánh” được nói đến trong 3,20. Trong cách nói của các rabbi Do Thái, “bánh” nói đây chính là Luật và “ăn bánh” có nghĩa là được thấm nhuần Lề Luật của Thiên Chúa. Trong trường hợp của Nhóm Mười Hai, điều họ cần phải được thấm nhuần là sứ điệp của Đức Giêsu. Tuy nhiên, kẻ lui người tới quá đông đã không cho phép điều đó xảy ra. Theo nghĩa này, chúng ta càng hiểu rõ hơn tại sao Đức Giêsu muốn các ông lánh riêng ra đến một nơi thanh vắng, để chỉ có các ông ở riêng với Người mà thôi.
 
Đây là lần đầu tiên Đức Giêsu đề nghị các môn đệ lánh riêng ra đến một nơi thanh vắng. Và đề nghị này đã được các ông chấp nhận. “Vậy, thầy trò xuống thuyền đi lánh riêng ra một nơi hoang vắng” (c.32). Việc lặp lại hai yếu tố “nơi thanh vắng” và “riêng ra” cho thấy chủ đề được nhấn mạnh ở trình thuật này là gì: “nơi thanh vắng” là nơi tách biệt khỏi những ảnh hưởng của các giá trị Do Thái, và “riêng ra” có ý nhắc đến sự chưa thấu hiểu của các môn đệ như trong trường hợp 4,34. Như vậy, trong ý định của Đức Giêsu, việc thầy trò lánh riêng ra một nơi hoang vắng này là để Người có thể điều chỉnh sự chưa hiểu đúng của các môn đệ, trong khung cảnh tách biệt khỏi xã hội Do Thái và đám rất đông kẻ lui người tới.
 
“Thấy các ngài ra đi, nhiều người hiểu ý, nên từ khắp các thành, họ cùng nhau theo đường bộ chạy đến nơi, trước cả các ngài” (c.33). Trong cái nhìn của đám đông, Đức Giêsu và các môn đệ làm thành một nhóm, không có sự phân biệt giữa các ngài với nhau. Đám đông muốn được gặp các ngài. Vì thế, họ kéo nhau theo đường bộ mà chạy đến nơi. Họ “cùng nhau chạy bộ”, và là “từ khắp các thành”. Sự kiện này chứng tỏ họ được thúc đẩy mạnh mẽ bởi một mối quan tâm và ý tưởng chung. Đáng chú ý là họ đến từ các thành, tức là họ không phải dân cư của các “làng”, nơi Đức Giêsu đã giảng dạy (6,6b), mà là cư dân của các trung tâm quan trọng, nơi có các hội đường Do Thái. Rõ ràng đám đông này là đại diện cho tất cả những người Do Thái sống dưới ảnh hưởng của đạo lý chính thức của Do Thái giáo, đang khi Đức Giêsu đã trở thành người bị từ khước trong hội đường của “vùng đất của Người” như chúng ta đã suy niệm trong bài Tin Mừng của Chúa Nhật XIV Thường Niên trước đây.
 
“Ra khỏi thuyền, Đức Giêsu thấy một đám người rất đông thì chạnh lòng thương, vì họ như bầy chiên không người chăn dắt. Và Người bắt đầu dạy dỗ họ nhiều điều” (c.34). Đám đông dân chúng kéo đến đã làm gián đoạn việc thực hiện ý định của Đức Giêsu khi Người đề nghị các ông lánh riêng ra một nơi thanh vắng. Mặc dù vậy, Người vẫn ưu ái dành cho đám đông ấy một tình yêu thương rất đặc biệt.
 
Cần chú ý một chi tiết: đám đông chờ đợi cả nhóm, tức là bao gồm cả Đức Giêsu lẫn các môn đệ, nhưng tác giả Mc lại tách riêng Đức Giêsu khỏi các môn đệ, và vào lúc này, ông để cho các môn đệ biến mất khỏi sân khấu.
 
Đức Giêsu chú ý đến sự hiện diện của đám đông dân chúng và tình trạng thực tế của họ. Và Người chạnh lòng thương họ. Đây cũng là tâm tình của Người trước tình cảnh của người phong cùi trong 1,40-42. Trong Cựu Ước, lòng chạnh thương là tâm tình của Thiên Chúa đứng trước sự khốn khổ nhân loại. Đức Giêsu chạnh thương đám đông vì họ như bầy chiên không người chăn dắt, không biết phải đi đâu, không có ai hướng dẫn và bảo vệ. Như chúng ta đã nói trên kia, đám đông này đến từ các thành, tức là từ những nơi có hội đường và được hưởng sự hướng dẫn của thiết chế Do Thái. Thế mà tình cảnh của họ lại là tình cảnh của đàn chiên không người chăn dắt. Điều này chứng tỏ các nhà lãnh đạo Do Thái không phải là những mục tử đích thực. Đây là lần đầu tiên trong Mc Đức Giêsu sẽ đảm nhận vai trò mục tử của Israel. Từ trước đến nay Người mới chỉ đảm nhận vai trò ngôn sứ (x. 6,4).
 
“Và Người bắt đầu dạy dỗ họ nhiều điều”, tức là Người bắt đầu nói với họ về Nước Thiên Chúa, xuất phát từ những chỉ dẫn của Cựu Ước. Tác giả Mc đã không nói gì về nội dung Đức Giêsu giảng dạy ở đây, nhưng từ sự song song giữa 6,34 với 4,2 chúng ta có thể hiểu là Người nói với họ nhiều điều về Nước Thiên Chúa.
 
Bài Tin Mừng hôm nay nói với chúng ta về một khía cạnh đặc biệt trong tình cảnh của Đức Giêsu: Người phải đối diện cùng một lúc sự hiểu sai của các môn đệ thân tín nhất và sự bơ vơ vất vưởng của đám đông dân chúng. Mỗi nhóm có vấn đề riêng của họ, nhưng đối với cả hai nhóm, Đức Giêsu đều chạnh thương, tất nhiên là theo những cách thức khác nhau. Nổi bật trong dung mạo của Đức Giêsu được khắc họa trong bài Tin Mừng hôm nay là tình yêu nhân hậu vô cùng của Người.
 
Trong thực tế của cuộc sống và sứ vụ hiện nay của Hội Thánh, chúng ta vẫn thường xuyên phải đối diện với cùng một tình cảnh như những gì được trình bày trong bài Tin Mừng hôm nay. Và Đức Giêsu cũng vẫn đang chạnh thương tất cả chúng ta bằng tình yêu vô cùng nhân hậu của Người, như Người đã từng chạnh thương Nhóm Mười Hai và đám đông trong bài Tin Mừng mà chúng ta vừa suy niệm...
Tác giả bài viết: Lm. Giuse Nguyễn Thể Hiện, DCCT

Người chạnh lòng thương

CHÚA NHẬT 16 THƯỜNG NIÊN - NĂM B Suy niệm Tin Mừng Mc 6,30-34


            Tông đồ Gio-an đã cho ta một định nghĩa tuyệt vời về Thiên Chúa: “Thiên Chúa là tình yêu”, rồi sau đó ông cố gắng giải thích cho ta hiểu tình yêu đó là như thế nào (1 Ga 4,7-11). Đức Giê-su cũng giảng giải cặn kẽ cho ông Ni-cô-đê-mô biết về thứ tình yêu ấy: “Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời…” (Ga 3,16-18). Các lời giải thích trên thật siêu việt và đầy tính thuyết phục, tuy nhiên tình yêu không phải là vấn đề thuần tư duy; tình yêu thuộc lãnh vực cảm nghiệm và biểu lộ. Biểu lộ vĩ đại nhất của tình yêu Thiên Chúa chính là cái chết thập giá của Đức Giê-su, do đó cảm nghiệm của ta chỉ trở nên sâu sắc khi vào sâu trong cái chết tự hiến của Người. Thế nhưng tình yêu, ngoài biểu lộ đỉnh điểm và mãnh liệt nơi thập giá, vẫn có nhiều biểu lộ bình dị hơn, nhưng không kém phần sâu sắc mặn mà. Tác giả Mác-cô, qua đoạn văn ngắn gọn và giản dị, muốn chúng ta chạm được tới thứ tình yêu rất nhân bản đầy tình người đó.
            Các tông đồ mệt nhọc sau chuyến đi truyền giáo trở về, hẳn sẽ nghiệm thấy một tình cảm nồng ấm như thế nào khi nghe Ráp-bi Giê-su ân cần: “Chính anh em hãy lánh riêng ra một nơi thanh vắng mà nghỉ ngơi đôi chút”. Các ông có lẽ đã không ngờ những lời đậm đà như thế lại được thốt ra từ môi miệng một bậc thầy được thiên hạ kính nể với những lời giảng dạy cao đẹp đầy uy lực, ‘Thiên hạ sửng sốt về lời giảng dạy của Người, vì Người giảng dạy như một đấng có thẩm quyền chứ không như các kinh sư’ (Mc 1,22). Các ông càng không thể ngờ được rằng, nếu Thầy Giê-su là hiện thân của Thiên Chúa, thì làm sao Thiên Chúa lại có thể gần gũi và ân cần chăm sóc tới từng chi tiết của cuộc sống đời thường của con người đến thế. Cựu Ước đã nhiều lần cho thấy Gia-vê chăm sóc dân riêng Người tới từng chi tiết cuộc sống, hàng ngày cung cấp cho họ Man-na, thịt chim trời và nước uống (Xh 16, 17), cho mây che ban ngày và cột lửa chiếu sáng ban đêm (Xh 13,21). Nhưng cảm nghiệm một Thiên Chúa sống giữa loài người và đầy ắp tình người thì chưa từng bao giờ. Là các thủ lãnh tương lai của Hội Thánh, các tông đồ cần phải biết tới cảm nghiệm này. Giáo hội qua các thời đại cũng cần phải có. Và mọi Ki-tô hữu, trong một mức độ nào đó, cũng cần nghiệm thấy như thế trong cuộc sống hàng ngày, nhất là khi họ mở miệng tuyên xưng mầu nhiệm nhập thể, Thiên Chúa trở nên giống con người mọi đàng (Pl 2,6-8). Lúc đó thực tế này không còn chỉ là một suy tư thần học, mà trở thành một kinh nghiệm sống ngọt ngào thường ngày.
            ‘Ra khỏi thuyền, Đức Giê-su thấy một đám người rất đông thì chạnh lòng thương, vì họ như bầy chiên kh6ng người chăn dắt’. Cựu Ước hầu như muốn dành sự chăm sóc của Gia-vê cho riêng dân Do Thái của Người. Các tiên tri sau này sẽ ám chỉ xa xa Thiên Chúa cũng quan tâm tới các dân tộc khác và muốn qui tụ họ (Is 2,2). Phần các môn đệ, sau cảm nghiệm riêng tư thân mật, các ông đã được dẫn tới một trải nghiệm khác: sự quan tâm nhân ái của thầy Giê-su mở rộng cho hết mọi người, nhất là những ai bơ vơ vất vưởng. Chuyến đi truyền giáo cho các tông đồ kinh nghiệm đầu tay về việc thiết lập một dân riêng mới, nhưng dân này sẽ không hề có tính biệt loại (exclusive). Vừa cảm thấy được thầy Giê-su ân cần chăm sóc, các ông liền được cho biết, cõi lòng từ nhân Người mở rộng cho hết mọi người, nhất là các kẻ tội lỗi lầm lạc. Sau này còn rất nhiều lần Người không ngừng khảng định: đây chính là đặc điểm không thể nhầm lẫn của dân mới là Hội Thánh (Mc 9,38-40; Lc 9,49-55). Như Phao-lô khảng định, mọi Ki-tô hữu cần nhận thức điều này: phe phái, dưới bất cứ hình thức nào, đều đi ngược lại lòng từ nhân của đức Ki-tô, vì Người tới để phá bỏ mọi bức tường ngăn cách (Gl 3,27-28).
            Kết luận: càng có được cảm nghiệm riêng tư về lòng nhân ái Chúa, do được ưu ái chăm sóc cách đặc biệt (ơn gọi Ki-tô hữu, tu sĩ SDB, linh mục hay gì gì khác…nhận được), tôi càng phải biết mở rộng cõi lòng hơn để vượt thắng mọi hình thức phân rẽ: lương-giáo; triều-dòng; tu-đời, đạo đức-khô khan; tốt-xấu.., để trên hết, lòng từ bi thương xót Chúa phải bao trùm tất cả mọi sư.
            Lạy Thầy Giê-su từ bi và nhân hậu, xin đừng cho con chỉ nghiệm thấy sự uy nghi cao cả của các điều Người dạy dỗ. Lòng con khao khát hơn một cảm nghiệm nồng ấm được chăm sóc yêu thương. Xin cho con có được mỗi ngày vài giây phút gần gũi thân mật với tâm tình được Chúa xót thương. Amen 
Tác giả bài viết: Lm Gioan Nguyễn Văn Ty SDB

TIẾNG KÊU CỦA ẾCH


Một vị ẩn sĩ đạo đức nọ nổi tiếng là người có thể sai khiến được thú vật.
Một buổi tối nọ, ông đang tịnh niệm cầu nguyện, một con ếch không biết từ đâu cất tiếng kêu lên inh ỏi. Vị ẩn sĩ cố gắng tập trung ý chí vào lời cầu nguyện để không còn nghe tiếng ếch kêu nữa. Nhưng ông càng cố gắng, tiếng ếch càng kêu to. Không còn tự chế được nữa, vị ẩn sĩ quát lên: "Hãy câm miệng cho ta cầu nguyện được không?".
Mệnh lệnh đầy uy lực của nhà ẩn sĩ đã bịt miệng được chú ếch. Thinh lặng trở lại với không gian. Nhưng cũng chính lúc đó, nhà ẩn sĩ như nghe vang vọng trong tâm hồn ông một tiếng kêu khác. Ông nghe như có người nói với ông rằng: "Có lẽ Chúa cũng ưa thích tiếng kêu của ếch như lời cầu kinh của ngươi". Vị ẩn sĩ hỏi vặn lại: "Tiếng kêu của ếch mà cũng làm cho lỗ tai của Chúa vui được sao?". Tiếng kêu trong tâm hồn ông đáp trả: "Vậy thì ngươi có biết tại sao Chúa tạo ra âm thanh không?".
Vị ẩn sĩ chợt hiểu được bài học từ trong nội tâm... Ông đến bên cửa sổ và ra lệnh cho chú ếch: "Nào, hãy hát lên đi". Tiếng kêu của chú ếch vang lên, mấy chú ếch xung quanh cũng hòa theo một nhịp tạo thành một bài ca lúc trầm lúc bổng, lúc dặt dìu, lúc tha thiết... Ðêm vắng bỗng trở nên vui hơn.
Với sự khám phá trên đây, trái tim của nhà ẩn sĩ bỗng trở nên hài hòa với vũ trụ và lần đầu tiên trong đời, ông hiểu được thế nào là cầu nguyện.
Sự cầu nguyện thường cần phải có một khung cảnh thích hợp. Có một không gian đặc biệt dành cho cầu nguyện, có một quãng thời gian đặc biệt dành cho cầu nguyện, có một bầu khí đặc biệt dành cho cầu nguyện. Ðó là điều thiết yếu dành cho cuộc sống con người... Ðó là lý do hiện hữu của một bàn thờ nhỏ trong nhà, đó là mục đích của các ngôi thánh đường.
Tuy nhiên, sự cầu nguyện sẽ đánh mất của nó, nếu con người đóng khung nó trong một khung cảnh và bầu khí đặc biệt. Cầu nguyện là một gặp gỡ với Chúa và đồng thời cũng là một giao kết với tha nhân. Thiên Chúa, chúng ta không thể đóng khung trong bốn bức tường vắng lặng của nhà thờ. Con người, chúng ta phải gặp gỡ ngay trên chợ đời.
Thành ra, lời cầu nguyện đích thực phải là lời cầu nguyện mà con người có thể dâng lên Thiên Chúa trong bất cứ hoàn cảnh nào, trong bất cứ lúc nào, bằng tất cả cuộc sống. Lời cầu nguyện đích thực là lời cầu nguyện được thốt lên trong thời thuận tiện cũng như không thuận tiện. Lời cầu nguyện đích thực là cả một cuộc sống tuân phục ý Chúa, một cuộc sống hài hòa với tha nhân, một cuộc sống "xin vâng" trong từng phút giây.



Tác giả Veritas

NGƯỜI TỬ TÙ


Tại một nhà tù nọ, có một người đàn ông bị kết án tử hình. Nhưng người ta thấy anh không hề tỏ ra nao núng, trái lại lúc nào cũng vui tươi ca hát.
Ngày nọ, các quản giáo bắt gặp anh đang chơi tây ban cầm trong sân chơi của trại tù. Ðám đông bu quanh anh, lúc đầu còn nhút nhát, về sau mọi người cùng hát theo tiếng đàn của anh. Thấy thế, ban giám đốc nhà tù mới ra lệnh không cho anh được chơi đàn nữa.
Nhưng ngày hôm sau, tù nhân đã có bản án tử hình ấy vẫn tiếp tục ra sân chơi và đàn ca như mọi ngày. Ðám đông tù nhân cũng tuôn đến ca hát với anh. Không chịu nổi nữa, những người canh tù sấn đến túm lấy anh và chặt đứt những ngón tay của anh. Họ nghĩ rồi đây anh sẽ không còn chơi đàn được nữa và như vậy đám đông cũng không còn tụ tập được nữa. Nhưng ngày hôm sau, cũng người tử tội ấy, cũng đám đông ấy tụ tập lại trong sân tù và với đôi tay cụt, anh vẫn có thể đàn được những điệu nhạc càng thảm thiết hơn. Lần này, những tên canh tù lôi anh đi và đập nát chiếc đàn.
Ngày hôm sau, con người đáng thương ấy cũng trở lại sân chơi và cất tiếng hát vang. Tiếng hát ca của anh dặt dìu, tha thiết và mời gọi đến nỗi đám đông cũng kéo đến hòa cùng tiếng hát với anh. Lần này, những tên canh tù mới đưa anh đi và họ cắt lưỡi anh. Họ nghĩ rằng tiếng đàn đã bị dập tắt, tiếng ca cũng sẽ bị tắt lịm và như vậy, không còn ai sẽ tụ tập trong sân nữa.
Nhưng trước sự ngạc nhiên của mọi người, ngày hôm sau, người tử tội vẫn trở lại sân chơi. Lần này, anh không đàn, không hát, nhưng nhảy múa theo một điệu nhạc câm mà chỉ mình anh mới có thể nghe được. Không mấy chốc, đám đông tù nhân kéo đến và họ nhảy múa xung quanh con người khốn khổ ấy.
Câu chuyện trên đây nhắc chúng ta nhớ đến một vũ công Ấn Ðộ tên là Sudha Chandran. Chính lúc cô đạt đến tuyệt đỉnh của danh vọng cũng là lúc bàn chân phải của cô phải bị cưa. Nhưng người vũ công đầy ý chí này đã không bỏ cuộc... Sau khi bình phục, cô đã ráp chân giả và luyện tập cho đến khi nhuần nhuyễn trở lại như trước. Khi được hỏi: "Làm thế nào để có thể nhảy múa bình thường trở lại?". Cô trả lời: "Chúng ta không nhất thiết cần có chân mới có thể nhảy múa được".
Thiên Chúa không ban cho chúng ta một số lượng nén bạc đồng đều. Kẻ được năm nén, người được hai nén, kẻ chỉ được một nén... Một nén đó có thể là một nén của nghèo nàn, bất hạnh, rủi ro, mất mát. Nhưng trong Tình Yêu Quan Phòng của Chúa, nén bạc vẫn có thể sinh lời được những hoa trái của yêu thương, của tin tưởng, của lạc quan vui sống...
Chúng ta không nhất thiết cần có đôi chân mới nhảy múa được. Chúng ta có thể nhảy múa với tâm hồn phấn khởi, chúng ta có thể ca hát với lòng tin yêu, vui sống..
Không gì có thể tách chúng ta ra khỏi lòng mến của Chúa. Dù tù đày, dù bệnh tật, dù khốn khổ đến đâu, nếu chúng ta có lòng mến, thì cuộc sống trơ trụi, nghèo hèn của chúng ta vẫn luôn là bài ca chúc tụng, tri ân dâng lên Chúa.



Tác giả Veritas

29 tháng 7, 2012

MỘT TIẾNG CÁM ƠN


Trong một bài huấn đức ngắn ngủi trước khi đọc kinh truyền tin, Ðức Gioan Phaolô I, vị Giáo Hoàng của mỉm cười, đã kể một câu chuyện như sau:
Trong một gia đình nọ, một người đàn bà phải lo phục dịch cho một người chồng, một người anh và hai người con trai lớn. Bà phải làm tất cả mọi sự trong nhà: từ đi chợ, nấu ăn, giặt giũ đến quét dọn trong nhà. Một ngày Chúa Nhật nọ, sau một buổi sáng đi dạo ngoài trời trở về, những người đàn ông bỗng nhận thấy có một điều lạ trong nhà, bàn ăn đã được chuẩn bị cho bữa trưa, nhưng thay vì thức ăn, họ chỉ thấy toàn cỏ khô. Mọi người đều nhao nhao phản đối người đàn bà... Chờ cho mọi người im tiếng, người đàn bà mới bình tĩnh giải thích:
"Tất cả thức ăn đều có sẵn rồi, nhưng cho phép tôi được nói một điều. Tôi phải chuẩn bị thức ăn hằng ngày cho các người, tôi phải dọn dẹp trong nhà, tôi phải giặt giũ quần áo cho các người, tôi phải làm mọi sự trong nhà này, nhưng chưa bao giờ các người mở miệng khen lấy một tiếng, hay nói một lời cám ơn... Các người chỉ chực có một thiếu sót của tôi để la ó, phản đối mà thôi".
Vô ơn là thái độ thường xuyên của mỗi người trong chúng ta. Chúng ta dễ thấy những thiếu sót của người khác đối với chúng ta, nhưng chúng ta lại thiếu nhạy cảm đối với những gì người khác đang làm cho chúng ta. Một chút tế nhị, một chút cảm thông, một lời nói an ủi vỗ về, một tiếng cám ơn, đó là men làm dậy niềm vui trong cuộc sống của chúng ta.


Tác giả Veritas

NHỮNG KỶ NIỆM NHỎ


Tổng thống Wilson của Hoa Kỳ, người đã đưa nước Mỹ can thiệp vào thế chiến thứ I, là người rất thận trọng đối với những kỷ niệm nhỏ.
Lần kia, ông và phu nhân cùng với nhiều nhân vật cấp cao trong chính phủ dừng lại một thành phố thuộc tiểu bang Montana.
Cảnh sát làm hàng rào không cho bất cứ ai đến gần vị tổng thống. Nhưng, không hiểu làm thế nào mà có hai cậu bé đã chui lọt hàng rào cảnh sát để đến gần chỗ ngồi của tổng thống. Hai cậu bé ngắm nhìn một cách say sưa vị nguyên thủ quốc gia. Một cậu bé tìm cách tặng cho kỳ được lá cờ nhỏ bé của nước Mỹ mà em đang cầm trên tay. Cảnh sát cố tình ngăn chận cậu bé, nhưng bà Wilson đã đưa tay đón lấy lá cờ và vẫy tay em một cách nhiệt tình.
Cậu bé khác cảm thấy buồn hiu vì em không có gì để dâng tặng cho tổng thống. Em cố gắng mò mãi trong túi quần và cuối cùng lôi ra được một đồng xu nhỏ. Em cố gắng vượt qua mọi chướng ngại để chạy đến trao cho tổng thống. Em sung sướng vô cùng, bởi vì chính tổng thống Wilson là người chìa tay ra để đón nhận món quà của em với tất cả trang trọng.
Năm năm sau, tổng thống Wilson qua đời. Bà Wilson xếp đặt lại các đồ dùng quen thuộc của chồng. Mở chiếc ví của ông, bà thấy có một bọc giấy được giữ gìn cẩn thận. Tháo chiếc bọc giấy, bà nhận ra ngay tức khắc đồng xu nhỏ mà cậu bé đã tặng cho chồng bà cách đây năm năm. Ông quý đồng xu nhỏ ấy đến độ đi đâu ông cũng mang nó theo.
Thiên Chúa cũng đối xử với chúng ta như thế. Ngài giàu có biết bao, nhưng những đồng xu nhỏ mà chúng ta trao tặng cho Ngài, Thiên Chúa đón nhận và cất giữ như báu vật... Một Thiên Chúa giàu sang dường như không ưa thích của cải dư dật của chúng ta cho bằng những đồng xu nhỏ của lòng thành, sự quảng đại, những âm thầm hy sinh, phục vụ quên mình của chúng ta...
Chúa Giêsu đã cho chúng ta thấy được cái nhìn trang trọng của Chúa đối với lòng thành của con người. Lần kia, Ngài vào đền thờ và quan sát những người đang dâng cúng tiền của. Ai ai cũng bỏ tiền vào hòm, chợt có một người đàn bà góa chỉ bỏ có một đồng xu nhỏ. Vậy mà Ngài đã tuyên bố: Người đàn bà này đã dâng cúng nhiều hơn ai hết, bởi vì trong khi mọi người bố thí những của dư thừa của mình, còn người đàn bà nghèo này lại dâng cúng tất cả những gì mình có để độ nhật...
Thiên Chúa luôn trân trọng và quý mến tất cả những gì chúng ta dâng tặng Ngài. Những lễ vật càng đơn sơ, nhỏ bé dưới mắt người đời, càng có giá trị trước mặt Chúa. Chỉ có Chúa mới thấy được giá trị của những âm thầm đau khổ, của những hy sinh quên mình từng ngày, của những việc làm vô danh...


Tác giả Veritas

26 tháng 7, 2012

HẠNH PHÚC NÀO BẰNG

26/07/12 THỨ NĂM TUẦN 16 TN
Th. Gioakim và Anna
Mt 13,10-17

HẠNH PHÚC NÀO BẰNG
“Mắt anh em thật có phúc vì được thấy, tai anh em thật có phúc vì được nghe.” (Mt 13,16-17)
Suy niệm: Cặp vợ chồng gương mẫu và lý tưởng Gioakim và Anna mà Giáo hội mừng lễ hôm nay đã để lại cho đời một hạt ngọc quí giá, đó là Đức Maria. Các ngài thật diễm phúc vì thấy được người con mình sinh ra, nuôi dạy khôn lớn và thành đạt. Chúa Giêsu cho biết những ai đi theo Ngài làm môn đệ cũng được diễm phúc còn hơn thế nữa. Được nghe, được thấy, được biết Chúa Giêsu không chỉ là một niềm tự hào theo kiểu tự nhiên được là người thân cận với một ông thầy nổi tiếng. Chúa Giêsu là Thầy dạy, là Con Thiên Chúa, là Đấng Cứu Độ; cho nên biết Ngài cũng đồng nghĩa là được Ngài cứu độ. Đó là điều mà “chư dân” chỉ nghe biết qua dụ ngôn, điều mà các ngôn sứ và nhiều người công chính mong nghe mà không được nghe, muốn thấy mà không được thấy.
Mời Bạn: Bạn có cảm thấy hạnh phúc khi chọn theo đạo Chúa hay không? Hoặc bạn có hạnh phúc khi được Chúa gọi theo cuộc sống tu trì hay không? Trước cái nhìn của Chúa bạn đang đi đúng hướng, là người hạnh phúc vì bạn đang sở hữu Đấng là nguồn hạnh phúc.
Chia sẻ: Mong rằng hạnh phúc ấy sẽ luôn là động lực thúc đẩy mỗi người tin tưởng dấn bước trong bậc sống của mình để đem lại hạnh phúc không chỉ cho cá nhân bạn mà còn cho cả những người sống với bạn nữa.
Sống Lời Chúa: Nhờ năng suy niệm Lời Chúa mỗi ngày bạn sẽ khám phá thấy hạnh phúc đích thực chỉ có ở nơi Chúa mà thôi.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, nguồn hạnh phúc dịu êm. Xin lôi kéo mọi người đến với Chúa và ở lại với Chúa luôn mãi.

VẾT SẸO NƠI BÀN CHÂN

Ông Khấu Chuẩn, người đời nhà Tống, đất Hạ Bì, lúc nhỏ là một cậu bé lêu lổng, ham chơi. Bà mẹ vốn là người nghiêm khắc, nên thường hay quở phạt ông. Tuy nhiên, tính nào vẫn tật ấy, Khấu Chuẩn vẫn không thay đổi. Một hôm, ông trốn học đi chơi, bà mẹ giận quá cầm quả cân ném phải chân ông, máu chảy đầm đìa... Từ đó, ông đã bỏ hẳn tính lêu lổng phóng túng, chỉ lo chuyên cần học tập. Về sau đỗ đạt, ông được bổ làm tể tướng. Mỗi khi sờ đến vết sẹo ở bàn chân, ông khóc nức nở: "Chính vết thương này đã làm ta nên người".


Sống là một cuộc chiến đấu không ngừng. Thương tích dường như là một điều thiết yếu trong cuộc sống. Vấp ngã là điều thường tình trong thân phận con người. Chúng ta không nhìn lại những vết sẹo trong tâm hồn để nuối tiếc quá khứ, nhưng để nhận rõ dấu chỉ của một tình thương bao la cao cả hơn. Phải, Thiên Chúa mạnh hơn sự chết và tội lỗi của con người. Nói như thánh Phaolô: nơi nào tội lỗi càng nhiều, nơi đó ân sủng của Chúa càng dồi dào.





Tác giả Veritas

25 tháng 7, 2012

HẠT GIỐNG RƠI XUỐNG ÐẤT CÓ THỐI ÐI...


Giacôbê, vị thánh mà Giáo Hội kính nhớ hôm nay là con ông Giêbêđê và bà Salomê và là anh của thánh Gioan tông đồ. Người ta quen gọi thánh Giacôbê Tiền để phân biệt với thánh Giacôbê, giám mục đầu tiên của Giêrusalem, được gọi là Giacôbê Hậu, kính ngày 03/5 cùng với thánh Philipphê.
Giacôbê và Gioan là hai anh em được Chúa Giêsu kêu gọi sau khi Ngài đã chiêu mộ hai anh em Phêrô và Anrê. Phúc Âm thánh Matthêu thuật lại: Hai anh em ông được Chúa gọi ở bờ hồ Genezareth, trong lúc đang ở trong thuyền vá lưới với cha. Ðược Chúa gọi, hai ông bỏ thuyền và người cha để theo Chúa ngay lập tức. Ðiều này chứng tỏ lòng hăng hái nhiệt thành của hai anh em, nên hai người được Ngài cho biệt hiệu là "con cái của sấm chớp" như chúng ta thấy xảy ra ít là trong hai trường hợp sau đây:
Trường hợp thứ nhất khi người xứ Samaria ngăn cản không cho Chúa Giêsu và đoàn môn đệ đi qua lãnh thổ của họ để tiến về Giêrusalem, hai anh em Giacôbê đã hỏi Thầy: "Thưa Thầy, Thầy có bằng lòng để chúng tôi khiến lửa trên trời xuống thiêu hủy họ không?".
Sau đó, trong chuyến đi Giêrusalem lần cuối cùng, cả hai đã đến xin ngồi bên phải và bên trái Thầy, khi Chúa Giêsu sẽ thống trị trong vinh quang. Và khi không hiểu hoàn toàn ý nghĩa câu hỏi của Chúa: "Anh em có uống được chén Ta sẽ uống không?", hai ông đã nhất quyết thưa: "Chúng tôi uống được". Vì thế, sau khi lãnh nhận Chúa Thánh Thần, như các môn đệ khác, Giacôbê cũng can đảm làm chứng những điều mắt thấy tai nghe về Thầy Giêsu, dầu bị cầm tù, đòn vọt, nhưng đã vui mừng vì được đau khổ vì Chúa Giêsu.
Năm 42, vua Hêrôđê, cháu của Hêrôđê cả, người đã âm mưu giết con trẻ Giêsu, đã bách hại một số thủ lĩnh của các tín hữu Kitô, trong số đó có cả thánh Giacôbê, như sách Tông Ðồ Công Vụ ghi: "Cùng thời kỳ ấy, vua Hêrôđê ra tay bắt bớ và làm khổ mấy người trong Giáo Hội, vua đã truyền chém ông Giacôbê, anh của ông Gioan. Thấy điều này làm vừa lòng người Do Thái, ông lại bắt cả ông Phêrô nữa".
Với nguồn tin này, chúng ta biết thánh Giacôbê là vị tông đồ đầu tiên đã đổ máu đào minh chứng cho niềm tin của mình.
Trong thời nội chiến 1936-1939 tại Tây Ban Nha, các quân phiến loạn đốt nhà thờ, nhà thương, tu viện và giết hại nhiều linh mục cũng như nữ tu. Ngày nọ, một vị linh mục già nua bị phiến quân bắt và bị kết án tử hình. Khi bị trói và dẫn đến trước mặt đội lính hành quyết, cha nói với tên trưởng toán: "Xin anh làm ơn cắt dây trói này, để tôi có thể giơ tay chúc lành cho anh và xin Thiên Chúa cũng tha thứ và chúc lành cho các anh".
Lịch sử ghi nhận đa số các tông đồ đã kết thúc cuộc đời chứng tá cho niềm tn bằng những cái chết đau thương, khởi đầu cho những lớp người chứng tá khác trải qua bao thế hệ. Và cũng như vị linh mục trong câu chuyện trên, hàng trăm, hàng ngàn chứng nhân của niềm tin vẫn còn đang bị giam cầm, tra vấn, đày đọa vì niềm tin. Họ chấp nhận những khổ hình một cách bình thản, không oán hận, trái lại, noi gương Chúa Giêsu, họ sẵn sàng tha thứ cho những ngươi làm khổ họ.
"Hạt giống rơi xuống đất có mục nát và chết đi, mới nảy mầm và phát sinh hoa trái". Không gì minh chứng hùng hồn cho lời tuyên bố này của Chúa Giêsu bằng những cuộc sống chứng tá của các tín hữu Kitô đang chịu đau khổ, giam cầm và tử hình vì niềm tin.

Tác giả Veritas

24 tháng 7, 2012

LÀ NGƯỜI EM CỦA ĐỨC GIÊSU

24/07/12 thứ ba tuần 16 tnTh. Sácben Máclúp, linh mục
Mt 12,46-50

là người em của Đức giêsu
“Vì phàm ai thi hành ý muốn của Cha tôi, Đấng ngự trên trời, người ấy là anh chị em tôi, là mẹ tôi.” (Mt 12,50)
Suy niệm: “Ai là mẹ tôi? Ai là anh em tôi?” Cứ ngỡ câu trả lời sẽ rất rõ ràng và dễ dàng: là Đức Maria và các anh em họ Đức Giêsu đang đứng ở vòng ngoài. Thế nhưng, đáp án Đức Giêsu đưa ra thật bất ngờ khiến ai nấy ngỡ ngàng: người thân của Ngài là tất cả những ai thi hành ý muốn của Cha trên trời. Chắc chắn Đức Giêsu không coi nhẹ quan hệ, tình nghĩa theo huyết thống. Ngài muốn ta vượt lên trên gia đình thân thiết theo nghĩa thông thường, để mở rộng lòng đón nhận một quan hệ, tình nghĩa thiêng liêng: quan hệ, tình nghĩa của những người con cái trong gia đình của Thiên Chúa. Trong đại gia đình ấy, chúng ta trở nên con cái Thiên Chúa nhờ trở nên giống người Anh Cả Giêsu, Đấng luôn vâng phục và vuông tròn thực hiện thánh ý Chúa Cha.
Mời Bạn: “Một giọt nhỏ vâng phục đơn sơ có giá trị gấp triệu lần một bình đầy những suy tính đã chọn lọc kỹ càng” (Th. Maria Mađalêna Pazzi). Tình yêu chân thật với Thiên Chúa dựa trên nền tảng là lòng vâng phục. Đức Giêsu đã chứng tỏ lòng yêu mến ấy bằng sự vâng phục tuyệt đối, kể cả bằng việc hy sinh mạng sống. Mời bạn nhìn ngắm mẫu gương vâng phục của Ngài.
Sống Lời Chúa: Xem lãnh vực nào, tôi thường tìm cách né tránh làm theo ý Thiên Chúa; tôi tìm cách loại bỏ những ý riêng mà tôi nguỵ trang làm ý Chúa.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, xin dạy con làm theo thánh ý Chúa Cha để trở con thành người em của Chúa. Xin giúp con chiêm ngắm mẫu gương vâng phục của Chúa, nỗ lực đọc và suy niệm Lời Chúa mỗi ngày. Nhờ vậy, con nhận biết thánh ý Chúa Cha và vui vẻ thi hành

TÌM ĐÂU RA BÁNH CHO THA NHÂN ?

HIỆP SỐNG TIN MỪNG CHÚA NHẬT XVII THƯỜNG NIÊN B 2 V 4,42-44; Ep 4,1-6; Ga 6,1-15 I.HỌC LỜI CHÚA

(1) Sau đó, Đức Giêsu sang bên kia Biển hồ Ga-li-lê, cũng gọi là Biển hồ Ti-bê-ri-a. (2) Có đông đảo dân chúng đi theo Người, bởi họ từng được chứng kiến những dấu lạ Người đã làm cho những kẻ đau ốm. (3) Đức Giêsu lên núi và ngồi đó với các môn đệ. (4) Lúc ấy, sắp đến lễ Vượt Qua là đại lễ của người Do Thái. (5) Ngước mắt lên, Đức Giêsu nhìn thấy đông đảo dân chúng đến với mình. Người hỏi ông Phi-líp-phê : “Ta mua đâu ra bánh cho họ ăn đây ?” (6) Người nói thế là để thử ông, chứ Người đã biết mình sắp làm gì rồi. (7) Ông Phi-líp-phê đáp : “Thưa, có mua đến hai trăm đồng bạc bánh cũng chẳng đủ cho mỗi người một chút”. (8) Một trong các môn đệ là ông An-rê, anh ông Si-mon Phê-rô, thưa với Người : (9) “Ở đây có một em bé có năm chiếc bánh lúa mạch và hai con cá. Nhưng với ngần ấy người thì thấm vào đâu ?”. (10) Đức Giêsu nói : “Anh em cứ bảo người ta nằm ngả xuống đi.” Chỗ ấy có nhiều cỏ. Người ta nằm ngả xuống, nguyên số đàn ông đã tới khoảng năm ngàn. (11) Vậy Đức Giêsu cầm lấy bánh, dâng lời tạ ơn, rồi phân phát cho những người ngồi đó. Cá nhỏ người cũng phân phát như vậy, ai muốn ăn bao nhiêu tuỳ ý. (12) Khi họ đã no nê rồi, Người bảo các môn đệ : “Anh em thu lại những miếng thừa kẻo phí đi.” (13) Họ liền đi thu những miếng thừa của năm chiếc bánh lúa mạch người ta ăn còn lại, và chất đầy được mười hai thúng. (14) Dân chúng thấy dấu lạ Đức Giêsu làm thì nói : “Hẳn ông này là vị Ngôn sứ, Đấng phải đến thế gian !” (15) Nhưng Đức Giêsu biết họ sắp đến bắt mình đem đi mà tôn làm vua, nên Người lại lánh mặt, đi lên núi một mình.
2. Ý CHÍNH : Đức Giêsu chứng tỏ mình là Mô-sê Mới khi làm phép lạ nhân năm chiếc bánh và hai con cá ra nhiều để nuôi dân chúng ăn no, giống như trong thời kỳ Xụất hành, Mô-sê đã làm phép lạ nuôi dân Ít-ra-en trong sa mạc bằng man-na từ trời rơi xuống. Phép lạ nhân bánh ra nhiều là hình bóng của bí tích Thánh Thể mà Đức Giêsu sắp thiết lập trong bữa Tiệc Ly Vượt Qua sau này.
3. CHÚ THÍCH : 
- C 1-4 : + Biển hồ Ga-li-lê : Gọi là Ga-li-lê vì Biển Hồ này nằm ở xứ Ga-li-lê, miền Bắc nước Pa-lét-ti-na. Cũng gọi là Biển hồ Ti-bê-ri-a (x. Ga 6,1), vì vào năm 26 vua Hê-rô-đê An-ti-pa đã cho xây thành phố Ti-bê-ri-a ở gần Biển Hồ này, rồi người ta dùng tên thành đó để gọi là Biển Hồ Ti-bê-ri-a. Ngoài ra, Biển Hồ còn có tên là Ghen-nê-xa-rét (x. Lc 5,1). + Sắp đến lễ Vượt Qua là dại lễ của người Do Thái : Lễ Vượt Qua kỷ niệm việc dân Do Thái được thóat khỏi ách nô lệ cho dân Ai Cập, và được trở về miền Đất Hứa là xứ Ca-na-an (x. Xh 3,17), nơi Thiên Chúa đã hứa ban đất ấy cho tổ phụ A-bra-ham và dòng dõi đến muôn đời (x. St 12,1).
-C 5-7 : + Người hỏi ông Phi-líp-phê : Sở dĩ Phi-líp-phê được Đức Giêsu hòi vì ông là dân địa phương. + Ta mua đâu ra bánh cho họ ăn đây ? : Qua câu này, ta thấy Đức Giêsu còn quan tâm cả đến nhu cầu thể xác của đám đông dân chúng và tìm cách đáp ứng nhu cầu chính đáng ấy. + Người nói thế là để thử ông, chứ Người đã biết mình sắp làm gì rồi : Thời kỳ Xuất hành, Đức Chúa đã nhiều lần thử thách sự trung thành của dân Ít-ra-en, xem họ phản ứng thế nào khi gặp những hoàn cảnh khó khăn. (x. Xh 16,4;17,1-7). Trong bài Tin Mừng hôm nay, khi hỏi Phi-líp-phê kiếm đâu ra bánh cho đám đông ăn, Đức Giêsu muốn thử xem ông có tin vào quyền năng của Người trong hoàn cảnh khó khăn này không ? Còn Người thì đã có quyết định phải làm gì rồi. + “Có mua đến hai trăm đồng bạc bánh cũng chẳng đủ cho mỗi người một chút” : 200 đồng là một số tiền lớn, tương đương với 200 ngày công lao động, vì lương công nhật thời bấy giờ là một đồng (x. Mt 20,2.9).
-C 8-9 : + An-rê anh ông Si-mon Phê-rô thưa với Người : An-rê có lần đã dẫn đưa em mình là Si-mon đến giới thiệu với Đức Giêsu (x. Ga 1,42). Lần này ông cũng đã phát hiện ra một em bé trai có thực phẩm và dẫn em đến giới thiệu với Đức Giêsu. + “Ở đây có một em bé có năm chiếc bánh lúa mạch và hai con cá : Bánh lúa mạch là loại bánh mì rẻ tiền, làm bằng lúa mạch, là thức ăn dành cho gia súc. Đây là bánh của những người thật nghèo. Cá của em nhỏ mang theo là loại cá nhỏ ướp muối. Vì thời đó người ta chưa có phương tiện bảo quản cá tươi lâu được. Cá muối là món ăn bình dân của dân chài lưới ven bờ Biển Hồ. + “Nhưng với ngần ấy người thì thấm vào đâu !” : Nói lên sự bất lực của các Tông Đồ trước nhu cầu lớn lao của dân chúng đang đói và cần được ăn no.
-C 10-11 : + Anh em cứ bảo người ta nằm ngả xuống đi : Nằm ngả xuống hay ngồi xuống cách thoải mái là tập tục nằm nghiêng khi ăn uống của vùng Cận Đông. Theo Mác-cô, việc người ta ngồi thành từng nhóm một trăm hay năm mươi (x Mc 6,40), không những tiện lợi cho việc phân phát bánh theo thể thức Mô-sê đã làm trong cuộc Xuất Hành (x. Xh 18,21.25), mà còn nói lên tinh thần hiệp thông phải có, khi tham dự bữa tiệc Thánh Thể sau này (x. 1 Cr 11,18-21). + Chỗ ấy có nhiều cỏ : Đất có nhiều cỏ cho thấy khi ấy đang trong mùa xuân, là thời gian mừng lễ Vượt Qua của Đạo Do Thái. Cây cỏ xanh tươi gợi lên hình ảnh Đức Giêsu là vị Mục Tử nhân lành (x. Ga 10,11). Người dẫn đàn chiên Ít-ra-en Mới đi đến cánh đồng cỏ xanh tươi, để họ được ăn uống no nê và được sống dồi dào (x. Tv 23,1-3; Ga 10,10). + Vậy Đức Giêsu cầm lấy bánh, dâng lời tạ ơn, rồi phân phát cho những người ngồi đó : Trong Tin Mừng Nhất Lãm (gồm 3 Tin Mừng của Mát-thêu, Mác-cô, Lu-ca), Đức Giêsu trao bánh và cá cho Môn đệ để họ đi chia cho dân chúng (x. Mt 14, 19; Mc 6,41; Lc 9,16). Còn trong Tin Mừng Gio-an, Đức Giêsu tự phân phát bánh đã được nhân ra nhiều cho dân chúng. Việc Cầm lấy bánh, dâng lời tạ ơn, rồi phân phát là những cử chỉ Người sẽ làm trong bữa Tiệc Ly Vượt Qua (x Mt 26, 26). Như vậy, phép lạ nhân bánh ra nhiều này là hình bóng của bí tích Thánh Thể mà Đức Giêsu sẽ thiết lập.
-C 12-13 : + No nê : Theo Hy ngữ cổ, từ “no nê” chỉ việc cho súc vật ăn rơm. Khi dùng cho người thì có nghĩa là ăn no đến phát ngán !  + “Anh em thu lại những miếng thừa kẻo phí đi” : Tạo sao có nhiều miếng bánh thừa như vậy ? Theo phong tục Do Thái, khi ăn tiệc người ta có thói quen để lại chút gì cho các tôi tớ phục vụ bàn ăn. Số bánh thừa là mười hai giỏ đầy do mười hai Tông Đồ thu lượm.
-C 14-15 :  + Hẳn ông này là vị Ngôn sứ : Vị Ngôn sứ nói đây đã được Mô-sê đề cập đến như sau : “Bấy giờ Đức Chúa phán với tôi rằng : “Từ giữa anh em của chúng, Ta sẽ cho xuất hiện một Ngôn sứ giống như ngươi, để giúp chúng. Ta sẽ đặt những lời của Ta trong miệng người ấy, và người ấy sẽ nói với chúng tất cả những gì ta truyền cho người ấy “ (Đnl 18,17-18). + Đức Giêsu biết họ sắp đến bắt mình đem đi mà tôn làm vua, nên Người lại lánh mặt, đi lên núi một mình : Người Do Thái đang bị người Rô-ma cai trị và họ khao khát trông mong Đấng Thiên Sai đến để làm vua của họ và cầm quân giải phóng họ khỏi ách đô hộ. Họ đã nhiều lần khởi nghĩa và đều bị quân Rô-ma đàn áp giết hại rất dã man. Đức Giêsu hiểu rõ sứ mệnh của Người không nhằm làm vua trần thế như ước muốn của người Do Thái, nên Người đã lánh lên núi để gặp gỡ Thiên Chúa.
4.CÂU HỎI : 1) Xưa vào thời kỳ Xuất Hành, Mô-sê đã nuôi dân Ít-ra-en trong suốt thời gian đi trong sa mạc 40 năm để về Đất Hứa bằng man-na từ trời rơi xuông, thì nay Đức Giêsu làm gì để ban Man-na Mới do dân Ít-ra-en Mới trên đường lữ hành về Đất Hứa Thiên Đàng ? 2) Tại sao Biển Hồ được mang tên là Ga-li-lê hay Ti-bê-ri-a ? 3) Lễ Vượt Qua là lễ của đạo Do thái hay đạo Công giáo ? Kỷ niệm biến cố nào trong lịch sử Ít ra-en ? 4) Tại sao Đức Giêsu hỏi Phi-lip-phê chổ để mua bánh cho dân chúng ? Có thể rút ra bài học gì qua câu hòi của Người ? Đức Giêsu hỏi thử Phi-lip-phê để tìm biết gì về đức tin của các môn đệ ?

II.SỐNG LỜI CHÚA :
1.LỜI CHÚA : Người hỏi Phi-líp-phê : “Ta mua đâu ra bánh cho họ ăn đây ?” (Ga 6,5).
2.CÂU CHUYỆN : PHẢI THỂ HIỆN LÒNG BÁC ÁI BẰNG HÀNH ĐỘNG CỤ THỂ :
Năm 1634, Thánh Vinh Sơn họp một số các bà đạo đức để cùng nhau sống đức bác ái theo Lời Chúa dạy. Các bà ngồi lại với nhau bàn cãi để tìm ra phương cách họat động. Tuy nhiên, sau nhiều buổi họp bàn sôi nổi mà kết quả chẳng đi đến đâu. Một hôm, trong lúc họ đang bàn cãi, thì thánh Vinh Sơn từ bên ngoài bước vào phòng họp, trên tay mang theo một vật được gói trong tấm khăn vải. Ngài đặt chiếc gói xuống giữa bàn họp. Thì ra đó là một bé gái mới sinh được khỏang ba ngày, bị bỏ lại bên cạnh đống rác mà ngài mới lượm được. Thánh nhân nói : “Các bà muốn làm việc bác ái thì đừng nói nhiều nữa mà hãy làm những việc cụ thể. Các bà hãy bắt tay làm việc nuôi trẻ bị bỏ rơi này ngay đi !”. Dòng Bác Ái Vinh Sơn ra đời từ ngày đó.
3.SUY NIỆM :
Giống nhu Mô-sê xưa đã được Đức Chúa ban man-na nuôi dân Ít-ra-en trong cuộc hành trình vượt qua sa mạc 40 năm về miền Đất Hứa, Tin Mừng hôm nay cũng cho thấy Đức Giêsu nhân bánh ra nhiều, ám chỉ việc Người sẽ Man-na Mới là bí tích Thánh Thể để nuôi dưỡng đức tin của Ít-ra-en Mới là Hội Thánh trên bước đường vượt qua sa mạc trần gian để về Đất Hứa Nước Trời đời sau. Qua trình thuật này, chúng ta có thể rút ra được một số bài học về đức tin như sau:
a) Cộng tác làm việc tông đồ : Đức Giêsu nói với Phi-lip-phê: “Ta mua đâu ra bánh cho họ ăn đây ?” Dĩ nhiên Người có thể làm phép lạ hóa bánh từ trời để nuôi đám đông dân chúng, giống như Đức Chúa đã ban man-na từ trời rơi xuống nuôi dân Ít-ra-en trong thời kỳ Xuất Hành. Nhưng ở đây, Đức Giêsu muốn các môn đệ ý thức và nhiệt tâm cộng tác trong sứ vụ ban ơn cứu độ cho lòai người.
Ngày nay Ngừơi cũng muốn các tín hữu chúng ta ý thức bổn phận phải tích cực góp phần vào sứ vụ loan báo Tin Mừng và phục vụ Chúa hiện thân nơi những người nghèo đói, bệnh tật và bị bỏ rơi…
b) Sự bất lực của chúng ta : Tin mừng ghi lại lời của Phi-lip-phê nói lên sự bất lực của các môn đệ trước nhu cầu quá lớn : “Có mua đến hai trăm đồng bạc bánh cũng chẳng đủ cho mỗi người một chút”: Tuy nhiên Đức Giêsu chỉ muốn thử để biết lòng tin của môn đệ, vì Ngừơi biết việc Người sắp làm.  
Ngày nay khi mời gọi chúng ta cộng tác, hẳn Đức Giêsu cũng quá rõ về khả năng giới hạn của chúng ta. Nhưng Người muốn chúng ta ý thức bổn phận cộng tác, rồi vừa làm hết sức mình, vừa cậy trông vào tình thương và quyền năng của Người như Người đã dạy: “Vì không có Thầy anh em không làm gì được” (Ga 15,5b).
c) Cộng tác bằng việc làm cụ thể :
An-rê đã mau mắn đưa một bé trai đến và thưa với Người : “Ở đây có một em bé có năm chiếc bánh lúa mạch và hai con cá. Nhưng với ngần ấy người thì thấm vào đâu ?”. Chúa cần thiện chí của các môn đệ thể hiện qua các việc làm thiết thực cụ thể, hơn là thái độ ỷ nại “nói mà không làm”.
Ngày nay Chúa muốn các tín hữu chúng ta làm những việc bác ái hợp với khả năng như thánh Gia-cô-bê dạy : “Ai bảo rằng mình có đức tin mà không hành động theo đức tin thì nào có lợi ích gì ? Đức Tin có thể cứu người ấy được chăng ? Giả như có người anh em hay chị em không có áo che thân và không đủ của ăn hàng ngày, mà có ai trong anh em lại nói với họ : “Hãy đi bình an, mặc cho ấm và ăn cho no”. Nhưng lại không cho họ những thứ thân xác họ đang cần, thì nào có lợi ích gì ?  Cũng vậy, đức Tin không có hành động thì quả là đức Tin chết” (x. Gc 2,14-17). Vậy chúng ta có thể làm gì trong những ngày này để phục vụ Chúa hiện thân trong các người nghèo khổ, bất hạnh và đang bị bỏ rơi ?
d) Phải tiết kiệm trong sự chi dùng :
Đức Giêsu dạy các môn đệ : “Anh em thu lại những miếng thừa kẻo phí đi”.
Ngày nay nhân lọai vẫn tồn tại hai lọai là người giàu và kẻ nghèo : “Kẻ ăn không hết người lần không ra !”. 80% của cải trên trái đất đang nằm trong tay 20% người giàu. Còn hơn 700 triệu người không đủ cơm ăn áo mặc và một phần ba trẻ em ở lục địa đen (Phi châu) đang bị suy dinh dưỡng rất cần được trợ giúp. Qua việc ra lệnh cho môn đệ thu lại những miếng bánh thừa bị vứt bừa bãi, Đức Giêsu muốn chúng ta phải biết trân trọng lương thực Chúa ban, vì của cải là của chung hết mọi người và chúng ta chỉ được trao quyền quản lý. Cần chi tiêu tiết kiệm để có điều kiện chia sẻ cho những người nghèo đói hơn mình. Vậy chúng ta có thể tiết kiệm những gì để lấy tiền giúp đỡ những ngừơi nghèo đói bên cạnh ? 
e) Phải đáp ứng cả nhu cầu về bánh tinh thần : Đức Giêsu có lần đã nhấn mạnh về giá trị của lương thực tinh thần như sau : ”Người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh, nhưng còn nhờ mọi lời do miệng Thiên Chúa phán ra” (Mt 4,4) :
Ngày nay lương thực thiêng liêng nuôi dưỡng đức tin mang lại sự sống đời đời chính là Lời Chúa và Thánh Thể được ban trong thánh lễ. Chúng ta cần dự lễ thế nào để đón nhận được sự sống đời đời như lời Chúa hứa : ”Tôi là bánh hằng sống từ trời xuông. Ai ăn bánh này sẽ được sống muôn đời” (Ga 6,51).
4.THẢO LUẬN : Đám đông dân chúng ngày nay vẫn còn nhiều người bị đói khát cơm ăn, áo mặc, thuốc men… và đói nghe Lời Chúa và Bánh Thánh Thể. Vậy chúng ta phải làm gì cụ thể trong khả năng giới hạn của mình để giúp người nghèo có cơm ăn áo mặc, người đau liệt có thuốc men chữa bệnh, trẻ em đường phố được người có trách nhiệm quan tâm chăm sóc nuôi nấng, người lương được nghe rao giảng Tin Mừng để tin Chúa và được sống đời đời sau này ?
5.NGUYỆN CẦU
-LẠY CHÚA GIÊSU. Xin cho chúng con biết luôn quảng đại, biết mở rộng con tim để góp phần giải quyết những khó khăn và đau khổ của tha nhân. Phần đóng góp của chúng con có thể chỉ là một nụ cười cảm thông với người bất hạnh, một ly nước lã hay một chén cơm cho người đói khát, một manh áo cũ cho người không áo che thân, một lời động viên an ủi cho người đang đau khổ vì bị hiểu lầm và đối xử bất công, một sự khoan dung tha thứ đối với những kẻ đang để tâm thù ghét làm hại chúng con... Xin cho chúng con biết cộng tác với Chúa trong việc cứu rỗi anh em. Xin cho chúng con quyết tâm mỗi ngày làm vui lòng một người, mỗi ngày làm ít nhất một việc thiện…, để trở thành những tông đồ giáo dân nhiệt thành làm cho “Danh Cha cả sáng, Nưốc Cha trị đến, Ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời”
X. HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A. -Đ. XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON.

LM ĐAN VINH