- Ngọc này tôi đã cho thợ ngọc xem, quả là một thứ ngọc rất báu nên mới dám dâng quan lớn. Xin quan lớn nhận cho tôi vui lòng.
- Ngươi cho ngọc là của báu, ta cho tính không tham là của báu. Ngươi đem ngọc cho ta, nếu ta nhận thì hai bên cùng mất cả của báu. Âu là ngươi cứ đem về. Ai giữ lấy vật báu của người ấy, như thế vật báu của hai người còn cả. Thế chẳng hơn ư?
Người biếu ngọc cúi đầu thưa:
- Chúng tôi là thường dân mà lại có ngọc quí này, chỉ sợ bị trộm cướp mà có khi hại đến thân.
Tử Hãn thấy thế, lưu người ấy lại, gọi thợ ngọc đến giũa ngọc, bán được tiền rồi, bèn đưa cho người ấy để làm giàu.
Sống niềm tin vào Đức Kitô không nhất thiết là thông hiểu giáo lý, mà cốt yếu ở tại biết mình tìm điều gì, và phải làm gì. Tin theo Đức Kitô, do đó, không chỉ đơn giản là lời tuyên xưng niềm tin ngoài miệng mà đòi phải thay đổi cả cuộc sống. Các môn đệ đầu tiên của Đức Kitô là những kiểu mẫu cho hành trình tin theo Đức Kitô. Trước hết, với lòng khao khát tìm một lẽ sống, họ đến Gioan Tẩy giả; khi Gioan giới thiệu Chúa Giêsu, họ “liền đi theo Chúa Giêsu”.
Điều kiện đầu tiên của đức tin, do đó, là một tâm hồn sẵn sàng, như Sa-mu-en dù đang lúc ngủ say mà nghe Chúa gọi liền thưa: “Dạ, con đây” và chạy ngay để tìm biết Chúa muốn gì.
Thiên Chúa đã khời xướng mối tương quan giữa Thiên Chúa và con người. Chính Chúa đã gọi Sa-mu-en, chính Đức Kitô đã hỏi các môn đệ: “Các anh tìm gì thế?”; và khi họ tỏ ra muốn tìm kiếm Chúa: “Thầy ở đâu?”, Chúa đã mời gọi họ bước vào cuộc sống của Ngài, và để Ngài bước vào cuộc sống của họ: “Hãy đến mà xem”. Đó cũng là câu hỏi và lời mời gọi Chúa đặt ra để hết những ai muốn theo Ngài phải biết rõ đâu là điều phải ước muốn, và đâu là việc phải làm khi tin theo Chúa Kitô.
Để trở nên một Kitô hữu, trước hết phải biết rõ mình tìm điều gì. Phải tìm Chúa. Đó là câu đầu tiên các môn đệ hỏi Đức Kitô: “Thầy ở đâu?”; Chúa đã đến với nhân loại, nhựng Chúa đã đòi hỏi mỗi người phải tích cực tìm Chúa: “Hãy đến mà xem”.
Cuộc đàm thoại ngắn ngủi giữa Đức Kitô và các môn đệ trong ngày đầu tiên đó cũng đã đưa ra những nét đề cương cho bản “hiến pháp” của những ai theo Đức Kitô: Điều chính yếu mà họ tìm kiếm là chính Chúa, và lề luật của họ là sống như Chúa đã sống.
Nói đến lề luật, triết gia Nietzsche có nói: “Nhiều người cố chấp theo đuổi con đường mà họ chọn, chỉ có một ít là theo đuổi mục đích”. Người ta dễ bị cám dỗ nhiệt tình với lề luật mà quên đi điều lề luật nhắm đến, sốt sắng với việc tông đồ bên ngoài mà tâm hồn lại ở xa Chúa, như Sa-mu-en lúc đầu đã chạy đến với Hê-li khi nghe tiếng Chúa gọi.
Lại tiếp chuyện lề luật, một số tín hữu Cô-rin-tô tự lừa gạt chính mình, nghĩ rằng họ được Đức Kitô giải thoát và ban sự tự do, không còn chịu lệ thuộc vào lề luật nữa. Phaolô cảnh báo: “Tôi được phép làm mọi sự”; nhưng không phải mọi sự đều có ích. "Tôi được phép làm mọi sự"; nhưng tôi sẽ không để sự gì làm chủ được tôi” (1Cr 6,12).
Còn Rabbi Samlai thì thuyết giảng: sáu trăm mười ba điều luật đã được ban cho Mô-sê (…) Đa-vít rút gọn lại còn mười một điều. Sau đó đến tiên tri Isaia rút lại còn sáu điều. Rồi đến tiên tri Mica rút lại chỉ còn ba. Một lần nữa tiên tri Isaia lại rút chúng lại thành hai điều, là sống chính trực và công minh, như đã được viết: “Đức Chúa được suy tôn, vì Người ngự trên chốn cao vời. Người làm cho Xi-on được đầy chính trực công minh” (Is 33,5). Và cuối cùng là đến tiên tri Amốt rút lại chỉ còn một điều, là “Hãy tìm Ta thì các ngươi sẽ được sống” (Am 5,4).
Thiên Chúa là Đấng tôi phải tìm suốt đời. Thành bại đời tôi, hạnh phúc đời tôi là ở đó. Chính Chúa đã khởi xướng, luôn ở bên tôi, và luôn tìm kiếm tôi, nhưng đôi lúc tôi tự hỏi mình: “Tôi đang tìm gì thế?”...
Và tôi giật mình thấy không có Chúa ở đó!
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét