I. HỌC LỜI CHÚA
1.TIN MỪNG : Mc 6,1-6
(1) Đức Giê-su ra khỏi đó, và đến nơi quê quán của Người, có các môn đệ đi theo. (2) Đến ngày Sa-bát, Người bắt đầu giảng dạy trong hội đường. Nhiều người nghe rất đỗi ngạc nhiên. Họ nói : “Bởi đâu ông ta được như thế ? Ông ta được khôn ngoan như vậy nghĩa là làm sao ? Ông ta làm được những phép lạ như thế nghĩa là gì ? (3) Ông ta không phải là bác thợ, con bà Ma-ri-a, và anh em của các ông Gia-cô-bê, Gio-xê, Giu-đa và Si-mon sao ? Chị em của ông không phải là bà con lối xóm với chúng ta sao ?” Và họ vấp ngã vì Người. (4) Đức Giê-su bảo họ : “Ngôn sứ có bị rẻ rúng, thì cũng chỉ là ở chính quê hương mình, hay giữa đám bà con thân thuộc, và trong gia đình mình mà thôi”. (5) Người đã không thể làm được phép lạ nào tại đó. Người chỉ đặt tay trên một vài bệnh nhân và chữa lành họ. (6) Người lấy làm lạ vì họ không tin
2.Ý CHÍNH : Sau một thời gian đi khắp nơi rao giảng Tin Mừng Nước Trời, Đức Giê-su đã về thăm quê hương là làng Na-da-rét. Dân làng ngạc nhiên trước lời giảng khôn ngoan và thán phục trước các phép lạ Người làm ở các nơi. Nhưng họ lại hoài nghi về thân thế của Người và không tin Người thực là Đấng Thiên Sai. Đức Giê-su đã không làm nhiều phép lạ tại đó vì họ cứng lòng tin.
3.CHÚ THÍCH :
-C 1-2 : + Đến nơi quê quán của Người, có các môn đệ đi theo: Đức Giê-su trở về quê hương Na-da-rét của Người (x. Mt 2,23). Làng này không mấy nổi danh như ông Na-tha-na-en đã nhận xét : “Từ Na-da-rét, làm sao có cái gì hay được ?” (x. Ga 1,46). Đức Giê-su về Na-da-rét để thăm thân nhân, và cũng để thi hành sứ mệnh rao giảng Tin Mừng Nước Trời ở đó nữa. + Đến ngày Sa-bát, Người bắt đầu giảng dạy trong hội đường : Tại các hội đường Do Thái, dân làng tập trung vào ngày Sa-bát để nghe các kinh sư đọc và giải thích Kinh Thánh. Người ta cũng thường mời các bậc vị vọng đến giảng dạy. Đức Giê-su đã nổi tiếng khắp nơi nên cũng được mời lên bục giảng. Dân làng ngạc nhiên về giáo lý của Người, nhất là khi nghe biết các phép lạ Người đã từng làm tại thành Ca-phác-na-um..
-C 3 : + Là bác thợ : Nhưng rồi dân làng Na-da-rét lại tỏ vẻ khinh thường nghề thợ mộc mà Đức Giê-su đã học theo cha là Giu-se. + Con bà Ma-ri-a : Họ không nhắc đến Giô-xép (hay Giu-se), có lẽ vì ông đã qua đời từ lâu, mà chỉ nhắc đến bà Ma-ri-a là một phụ nữ bình thường. + Anh em của các ông Gia-cô-bê, Giô-xép, Giu-đa và Si-mon sao ? Chị em của ông không phải là bà con lối xóm với chúng ta sao ? : Anh chị em được nêu tên ở đây chứng minh gia thế Đức Giê-su không có gì đặc biệt. Tuy nhiên, có người lại dựa vào câu này để phủ nhận đức đồng trinh trọn đời của Đức Ma-ri-a, vì ngoài Đức Giê-su, bà còn sinh thêm nhiều con trai con gái khác. Thực ra, anh chị em nói đây chỉ là anh chị em bà con mà thôi (x. St 13,8 ; 14,16). Chẳng hạn : Gia-cô-bê và Giô-xép là con của bà Ma-ri-a vợ ông Cơ-lô-pát (x. Mt 27,56; Ga 19,25), Giu-đa là con của ông Gia-cô-bê (x. Lc 6,16). Ngay từ ban đầu, Giáo Hội Công giáo luôn khẳng định : Đức Giê-su là “con trai đầu lòng” (x. Lc 2,7) và “Người con duy nhất” của Đức Ma-ri-a. Cũng vì thế mà khi sắp tắt thở trên thập giá Đức Giê-su đã trối Mẹ Người cho môn đệ Gio-an, và từ giờ đó Gio-an đã đón bà về nhà mà phụng dưỡng (x. Ga 19,27). Cuối cùng, nếu những người này thực là con của Đức Ma-ri-a, thì dân làng đã phải nói là “các em trai của ông ta”, “các em gái của ông ta”, thay vì nói từ chung chung “anh em ông” và “chị em ông”. + Và họ vấp ngã vì Người : Theo Thánh Phao-lô và Phê-rô thì : Đối với những kẻ kiêu căng cứng lòng tin, thì Đức Giê-su đã trở nên viên đá chướng ngại (x Rm 9,33; 1Pr 2,7-8). Tin Mừng Lu-ca cũng viết “viên đá bị loại ra” là Đức Giê-su, đã trở nên “viên đá góc”. Phàm ai ngã xuống đá này, kẻ ấy sẽ tan xương; Đá này rơi trúng ai, sẽ làm người ấy nát thịt” (Lc 20,18).
-C 4-6 : + “Ngôn sứ có bị rẻ rúng…” : Câu này tương tự như câu : “Bụt nhà không thiêng !”. Dân làng Na-da-rét đã vấp ngã trước những yếu tố nhân loại của Đức Giê-su như : Làm nghề thợ mộc hèn kém, có những thân nhân tầm thường… Đó là những chướng ngại khiến họ không tin Người thực sự là Đấng Thiên Sai. + Người đã không thể làm được phép lạ nào tại đó : Trước khi làm phép lạ cứu nhân độ thế, Đức Giê-su thường đòi người xin phải có đức tin. Chẳng hạn : Người bảo bệnh nhân : “Này con, lòng tin của con đã cứu chữa con” (Mc 5,34) ; Người nói với ông Gia-ia : “Ông đừng sợ, chỉ cần tin thôi” (Mc 5,36), hay nói với người mù ở Giê-ri-cô : “Anh hãy đi, lòng tin của anh đã cứu anh !” (Mc 10,52). Tại làng Na-da-rét, vì không tin, nên dân làng đã không nhận được phép lạ nào cả.
4.CÂU HỎI : 1-Đức Giê-su về thăm quê hương Na-da-rét nhằm mục đích gì ? 2-Dân làng tập trung tại hội đường vào các ngày Sa-bát để làm gì ? 3-Dân làng Na-da-rét nghĩ thế nào sau khi nghe Đức Giê-su giảng dạy ? 4-Dân làng có thái độ thế nào về nghề nghiệp và về thân nhân của Đức Giê-su ? 5-Phải chăng Đức Ma-ri-a không trọn đời đồng trinh, vì ngòai Đức Giê-su, Tin Mừng hôm nay còn kể tên nhiều anh em và chị em khác của Người ? 6-Dân làng Na-da-rét đã dựa vào đâu để không tin Đức Giê-su là Đấng Thiên Sai ? 7-Tại sao Đức Giê-su không làm nhiều phép lạ tại quê hương của Người ?
II. SỐNG LỜI CHÚA
1.LỜI CHÚA : Họ nói :“Nào ông ta không phải là bác thợ, con bà Ma-ri-a sao ?” (Mc 6,3).
2.CÂU CHUYỆN : TÌNH THƯƠNG CHINH PHỤC LÒNG NGƯỜI
Vào năm 1960, một cuộc bách hại đạo Công Giáo bùng lên tại nước Su-đăng thuộc Phi Châu. Một sinh viên Công giáo da đen tên là Ta-ban đã bỏ nhà chạy sang nước láng giềng U-gan-đa lánh nạn. Trong thời gian ở đây, Ta-ban đã được nhận vào chủng viện và 7 năm sau, anh được thụ phong Linh Mục. Khi tình hình ở Su Đăng lắng dịu, tân linh mục Ta-ban quyết định trở lại quê nhà để thi hành sứ mệnh linh mục của mình. Cha được Bề trên bổ nhiệm coi sóc một giáo xứ vùng Pa-lo-ta-ka. Tuy nhiên, giáo dân ở đây lại hoài nghi về chức linh mục của cha như chính ngài đã thuật lại sự kiện ấy như sau : “Dân chúng ngờ vực nhìn tôi và nói : “Này anh bạn da đen kia ! Anh nói cái gì vậy ? Anh mà là Linh mục ư ? Thật là khó tin !”.
Thực ra trước đây, tại Su Đăng chưa bao giờ xuất hiện một Linh mục nào người da đen cả. Giáo xứ luôn được các Linh mục thừa sai da trắng đến chăm sóc và chia sẻ nhiều thực phẩm, quần áo và thuốc men. Còn bây giờ cha Ta-ban lại là một người da đen nghèo khó giống như họ, nên chẳng có gì để phân phát như các linh mục da trắng kia. Tình hình lại càng phức tạp thêm, khi cha Ta-ban bắt đầu canh tân phụng vụ Thánh lễ theo đường hướng Công đồng Va-ti-can II. Giáo dân đã xầm xì với nhau : “Ông linh mục da đen này còn bày đặt làm lễ bằng tiếng bản xứ thay vì bằng tiếng La tinh. Chắc ông ta không rành tiếng La tinh nên mới làm như vậy ! Không biết ông ta là Linh mục thật hay giả ?”. Phải mất 10 năm, sau bao nhiêu vất vả để phục vụ giáo xứ, chịu đựng bao nhiêu sự miệt thị khinh dể, cuối cùng cha Ta-ban mới được giáo dân thừa nhận là Cha Sở của họ.
3.SUY NIỆM :
-Câu chuyện về Linh mục Ta-ban giúp chúng ta hiểu lý do tại sao Đức Giê-su bị dân làng Na-da-rét không tin Người là Đấng Thiên Sai, dù thán phục tài giảng đạo và quyền năng chữa bệnh của Người. Là do họ vấp phạm là vì gia thế hèn kém của Người. Họ nói : “Bởi đâu ông ta được như thế ? Ông ta được khôn ngoan như vậy nghĩa là làm sao ? (x Mc 6,2-3). Thời Giáo hội sơ khai, cũng có một nhân vật tên là Xen-xút (Celsus) luôn thù ghét Ki-tô giáo và nhiều lần chế diễu các Ki-tô hữu như sau : “Giê-su Đấng sáng lập của các người chỉ là một gã thợ mộc dốt nát bần hàn, xuất thân từ làng Na-da-rét tầm thường ! Thật khó mà chấp nhận được một Đấng Cứu Thế lại xuất thân từ một xưởng gỗ nhỏ bẻ, phải vất vả kiếm sống bằng đôi bàn tay lao động hằng ngày như thế !”
-Đức Giê-su phán : “Trò không hơn Thầy, tớ không hơn chủ. Trò được như Thầy, tớ được như chủ đã là khá lắm rồi !”. Ngày nay chúng ta cũng đừng ngạc nhiên khi bị người đời chống đối do chúng ta không chấp nhận phá thai, ly dị, hay khi ta chống lại những bất công mà các phụ nữ và trẻ em đang phải chịu đựng. Chúng ta cũng đừng ngạc nhiên khi có những Ki-tô hữu phản đối chúng ta vì chúng ta khác họ về chủng tộc, tiếng nói, quốc gia hay về tình trạng kinh tế. Cuối cùng, chúng ta cũng đừng ngạc nhiên nếu đôi khi ta bị những người thân ruột thịt chống lại ta, vì chúng ta đã tin Đức Giê-su, như Người đã báo trước : “Họ sẽ chia rẽ nhau : cha chống lại con trai và con trai chống lại cha, Mẹ chống lại con gái và con gái chống lại mẹ ; Mẹ chồng chống lại nàng dâu và nàng dâu chống lại mẹ chồng” (Lc 12,53). Trong mọi trường hợp, chúng ta cần vững lòng tin cậy vào Thiên Chúa. Người sẽ không để chúng ta phải chịu đựng quá sức chúng ta.
4.THẢO LUẬN : Trong cuộc sống, các tín hữu cần có cách ứng xử thế nào trước thái độ nghi ngờ, khinh thường hay những lời nói khiếm nhã khích bác của những kẻ thù ghét chống lại Chúa Giêsu và Hội thánh của Người ?
5.NGUYỆN CẦU :
-LẠY CHÚA GIÊ-SU. Là nhà giảng thuyết tài năng, thế mà Chúa cũng đành chấp nhận thất bại trước sự cứng tin của người đồng hương và bà con họ hàng. Nhiều lần chúng con cũng đành phải thất bại khi bị người lương từ chối nói chuyện về Chúa và có khi họ còn thốt ra những lời xúc phạm đến Chúa và Hội Thánh… Xin ban cho chúng con ơn kiên nhẫn chịu đựng những khó khăn gặp phải trên bước đường sống và rao giảng Tin Mừng. Cho chúng con biết tạ ơn Chúa khi vui lúc buồn, khi thành công được người lắng nghe cũng như lúc bị từ chối xua đuổi. Xin cho chúng con biết không ngừng tạ ơn vì biết rằng : Thất bại là mẹ thành công, và chính Chúa xưa cũng đã từng chịu thất bại trước sự cứng tin của người đồng hương.
X. HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A. -Đ. XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét