ĐƯỢC SAI ĐI…
Mỗi Kitô hữu đều được Thiên Chúa sai đi vào giữa cuộc đời để làm nhân-chứng-sống cho Ngài, điều đó thể hiện qua ngôn sứ Isaia khi ông nói thay mọi người: “Thần khí của Đức Chúa là Chúa Thượng ngự trên tôi, vì Đức Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, sai đi báo tin mừng cho kẻ nghèo hèn, băng bó những tấm lòng tan nát, công bố lệnh ân xá cho kẻ bị giam cầm, ngày phóng thích cho những tù nhân, công bố một năm hồng ân của Đức Chúa, một ngày báo phục của Thiên Chúa chúng ta; Người sai tôi đi yên ủi mọi kẻ khóc than” (Is 61:1-2).
Đó là trọng trách của mọi người tin tưởng và mong đợi Ngài. Nhưng vấn đề là Chúa không sai ai đến với người giàu sang, người quyền cao chức trọng, người ăn trên ngồi trước,… mà Ngài sai chúng ta đến với kẻ nghèo hèn, người đau khổ, tù nhân, người bị bỏ rơi, kẻ bị khinh miệt, kẻ cùng đinh,… Nhưng thực tế xã hội thường đi ngược lại, nghe “lời sai đi” kia cho xong lần, qua tai rồi thôi, sau đó có thể lại tự hành động theo ý mình. Có lẽ vậy mà người nghèo khổ và kẻ thấp cổ bé miệng vẫn không thể ngóc đầu lên được, nhân vị của họ vẫn bị chà đạp, nhân phẩm của họ vẫn bị bôi nhọ, và nhân quyền của họ vẫn bị tước đoạt! Chính ĐGH Leo XIII đã xác định trong tông thư Tân Sự (Rerum Novarum, 15-5-1891): “Sự nghèo khổ không là điều hổ thẹn” (a. 37).
Có ra đi, vào đời và hành động theo hướng dẫn của Thiên Chúa thì chúng ta mới có thể “như đất đai làm đâm chồi nẩy lộc, như vườn tược cho nở hạt sinh mầm, Đức Chúa là Chúa Thượng cũng sẽ làm trổ hoa công chính, làm trổi vang lời ca ngợi trước mặt muôn dân” (Is 61:11).
Nhân chứng sống động và khiêm nhu được tỏ rõ nơi Đức Mẹ. Lời Kinh Magnificat (Lc 1:46-50, 53-54) của Đức Maria chứa đầy nét hân hoan: “Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa, thần trí tôi hớn hở vui mừng vì Thiên Chúa, Đấng cứu độ tôi”. Tuy là người cao trọng và có cuộc sống tuyệt vời, nhưng Đức Mẹ vẫn tự nhận mình là “phận nữ tỳ hèn mọn”. Thiên Chúa Toàn Năng không chỉ làm cho Đức Mẹ biết bao điều cao cả, mà hàng ngày chúng ta cũng vẫn nhận “miễn phí” từ Thiên Chúa với bao điều kỳ diệu của cuộc sống! Đơn giản nhất mà cũng quan yếu nhất là không khí, nếu không có không khí trong vài giây thì không gì sống nổi. Một hồng ân kỳ diệu hiển nhiên vẫn xảy ra từng giây phút hàng ngày.
Đó là nhờ Lòng Chúa Thương Xót, vì “Chúa hằng thương xót những ai kính sợ Người” (Lc 1:50). Thiên Chúa là Đấng Thánh cao cả nhưng Ngài lại yêu chuộng sự công bình và đức khiêm nhu: “Kẻ đói nghèo, Chúa ban của đầy dư, người giàu có, lại đuổi về tay trắng” (Lc 1:53-54).
Dù hành động nhưng vẫn không được xao lãng cầu nguyện. Thánh Phaolô căn dặn: “Anh chị em hãy vui mừng luôn mãi và cầu nguyện không ngừng” (1 Tx 5:16-17). Không chỉ tạ ơn khi thuận ý mình mà “hãy tạ ơn trong mọi hoàn cảnh” (1 Tx 5:18), vì “đó là điều Thiên Chúa muốn trong Đức Kitô Giêsu”. Thánh Phaolô căn dặn thêm: “Anh em đừng dập tắt Thần Khí. Chớ khinh thường ơn nói tiên tri. Hãy cân nhắc mọi sự: điều gì tốt thì giữ, còn điều xấu dưới bất cứ hình thức nào thì lánh cho xa” (1 Tx 5:21-22). Tỉnh thức, vừa hành động vừa cầu nguyện để “thần trí, tâm hồn và thân xác được gìn giữ vẹn toàn, không gì đáng trách trong ngày Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, quang lâm” (1 Tx 5:23).
Kinh nghiệm đầy mình nên thánh Phaolô đoan chắc với chúng ta như đinh đóng cột: “Đấng kêu gọi anh chị em là Đấng trung thành: Người sẽ thực hiện điều đó” (1 Tx 5:24). Thế thì trên cả tuyệt vời! Vì chính Chúa Giêsu đã cầu xin Chúa Cha: “Lạy Cha, con muốn rằng con ở đâu thì những người Cha đã ban cho con cũng ở đó với con, để họ chiêm ngưỡng vinh quang của con, vinh quang mà Cha đã ban cho con, vì Cha đã yêu thương con trước khi thế gian được tạo thành” (Ga 17:24). Nhưng cũng cần điều kiện, điều kiện đó không vì lợi ích cho Chúa mà vì lợi ích cho chính chúng ta. Đó là…
…LÀM NHÂN CHỨNG
Trước khi sai Con Một Giêsu đến thế gian, Thiên Chúa đã sai ông Gioan đến chuẩn bị trước. Ông được gọi là tiền hô, ông không là ánh sáng nhưng ông đến để “làm chứng về ánh sáng để mọi người nhờ ông mà tin” (Ga 1:7).
Nhiều người Do Thái từ Giêrusalem cử một số tư tế và mấy thầy Lêvi đến hỏi ông Gioan: “Ông là ai?” Ông tuyên bố thẳng thắn: “Tôi không phải là Đấng Kitô”. Họ lại hỏi ông: “Vậy ông có phải là ông Êlia hay là vị ngôn sứ chăng?”. Thánh Gioan vẫn nói “không”. Họ hỏi dai như đỉa đói nên thánh Gioan đành nói thật: “Tôi là tiếng người hô trong hoang địa: Hãy sửa đường cho thẳng để Đức Chúa đi, như ngôn sứ Isaia đã nói” (Ga 1:23). Thánh Gioan thật khiêm nhu khi tự nhận là “tiếng hô trong hoang địa”.
Nghe vậy, mấy người thuộc phái Pharisêu nhíu mày và tròn mắt ếch: “Vậy tại sao ông làm phép rửa, nếu ông không phải là Đấng Kitô, cũng không phải là ông Êlia hay vị ngôn sứ?”. Đúng là bọn người “ma mãnh” mà lại quá chậm tiêu! Ông Gioan trả lời rành rọt: “Tôi đây làm phép rửa trong nước. Nhưng có một vị đang ở giữa các ông mà các ông không biết. Người sẽ đến sau tôi và tôi không đáng cởi quai dép cho Người” (Ga 1:27). Thánh Gioan lại một lần nữa khiêm nhu khi nói mình “không đáng cởi quai dép” cho Đấng đến sau ông.
Khiêm nhu là nền tảng mọi nhân đức, nhưng cũng là nhân đức khó thực hiện. Ai cũng muốn được khen. Đó là bản tính bình thường của nhân loại. Không ai muốn bị chê, nhất là những người có chức quyền, danh vọng, địa vị, “tai mắt” trong thiên hạ,… Tự ái là yêu mình, yêu mình là điều cần, nhưng đừng yêu mình quá. Đôi khi “chiếc ghế quyền lực” còn được người ta coi trọng hơn danh dự. Thực tế xã hội đã và đang cho chúng ta thấy rõ như vậy. Đó là một “hội chứng” đáng quan ngại, ngày nay người ta thường gọi là chủ nghĩa: Chủ nghĩa quyền lực và chủ nghĩa hưởng thụ.
Người Việt thường nói: “Văn mình, vợ người”. Quả thật, văn mình lúc nào cũng hay, và vợ người bao giờ cũng đẹp. Người ta luôn muốn chứng tỏ mình đúng và “bản lĩnh” của mình hơn hẳn người khác. Ai “chạm” vào quyền lợi của mình thì “có chuyện”, dù chỉ là chuyện không đáng gì. Thật vậy, chỉ nhìn thấy “ngứa mắt” mà người ta cũng sẵn sàng “xử” nhau theo “luật rừng”: Đánh cho bõ ghét hoặc giết cho biết tay. “Cái tôi” và “máu tự ái” luôn sẵn sàng dâng cao như sóng thần. Sống khiêm nhu khó thật!
Vĩ nhân Mohandas Karamchand Gandhi (2/10/1869 – 30/1/1948) được dân Ấn Độ tôn là thánh nhân và gọi ông là Mahatma (Tâm hồn Vĩ đại). Ông nói: “Nếu người Kitô giáo sống đúng như Chúa Giêsu, tôi theo đạo ngay”. Một câu nói khiến chúng ta phải suy nghĩ nhiều, vì Chúa muốn chúng ta phải là những nhân chứng sống thực sự.
Lạy Chúa, Ngài đã tác tạo nên chúng con, sai chúng con vào đời để làm chứng về Tình yêu bao la của Ngài, xin ban Thánh Thần để chúng con can đảm và nhiệt tâm lo việc Chúa, sẵn sàng dấn thân và hành động với tinh thần khiêm nhu, luôn biết nhận mình thiếu sót để khả dĩ sửa sai theo đúng Tôn Ý Ngài. Chúng con cầu xin nhân Danh Đấng Thiên Sai. Amen.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét