Nhạc nền

** *
Photobucket* Photobucket *
PHÔI PHA

25 tháng 2, 2012

“Thần Khí đẩy Người vào hoang địa. Người ở trong hoang địa bốn mươi ngày, chịu Satan cám dỗ, sống giữa loài dã thú, và có các thiên sứ hầu hạ Người”


Bài Tin Mừng hôm nay (Mc 1,12-15) gồm hai phần: Đức Giêsu ở trong hoang địa (cc.12-13) và Đức Giêsu khai mạc công việc rao giảng (cc.14-15). Vì chúng ta mới suy niệm cc.14-15 trong Chúa Nhật III Thường Niên (ngày 22/1/2012) vừa qua, nên hôm nay, bài suy niệm này sẽ chỉ tập trung vào phần nói về sự kiện Đức Giêsu ở trong hoang địa. Và những gì sắp được trình bày trong bài suy niệm này sẽ chỉ là một trong những cách hiểu có thể có về sự kiện ấy theo cách diễn tả của tác giả Mc.
Câu chuyện xảy ra ngay sau khi Đức Giêsu chịu phép rửa tại sông Giorđan: “Thần Khí liền đẩy Người vào hoang địa. Người ở trong hoang địa bốn mươi ngày, chịu Satan cám dỗ, sống giữa loài dã thú, và có các thiên sứ hầu hạ Người” (cc.12-13).

Thần Khí, sức mạnh của Thiên Chúa, “đẩy” Đức Giêsu vào hoang địa. “Đẩy” ở đây là một ẩn dụ chỉ sự thúc đẩy thần linh mà Đức Giêsu trải nghiệm; đó là sự thúc đẩy bên trong, mạnh mẽ, không thể cưỡng lại được. Sức mạnh của Thần Khí tràn ngập nơi Đức Giêsu và đặt Người, một cách chắc chắn, vào trong “hoang địa”. Và vì là tác động thần linh của chính Thiên Chúa, sự thúc đẩy và đặt để đó hẳn nhiên sẽ phù hợp với chương trình của Thiên Chúa về Đức Giêsu. Chương trình đó đã từng được tác giả Mc trình bày ngay từ những dòng đầu tiên của cuốn sách như một con đường (1,2). “Hoang địa” mà Thần Khí đẩy Đức Giêsu vào, vì thế, là nơi chốn mà ở đó Người phải thực hiện cuộc hành trình của Người.
Về bản chất, hoang địa này khác hẳn hoang địa của ông Gioan Tẩy Giả. Trong trường hợp của ông Gioan, đó là một nơi chốn địa dư, gần sông Giorđan, không dân cư và tách biệt hẳn xã hội con người; nhưng khi ông Gioan ở đó thì xảy đến hàng loạt những hoạt động do sự xuất hiện của các thành phần xã hội từ bên ngoài kéo đến: ông giảng dạy, ông làm phép rửa và người ta lãnh ơn tha thứ... Còn hoang địa mà Thần Khí đẩy Đức Giêsu vào thì không được xác định rõ ràng. Đức Giêsu đi vào trong hoang địa này bởi tác động của Thần Khí, ở lại đó trong một giai đoạn dài và thuần nhất (40 ngày), chịu cám dỗ, sống giữa các loài dã thú và được các thiên sứ phục vụ. Tác giả không kể bất cứ hoạt động nào của Người, kể cả việc cầu nguyện và ăn chay. Trong hoang địa này, bên cạnh Đức Giêsu, có sự hiện diện của ba loại “cư dân”: Satan, các loài dã thú và các thiên sứ. Tính chất và sự hiện diện đồng thời của ba loại “cư dân” này quanh Đức Giêsu khiến cho hoang địa này không còn mang tính chất địa dư – lịch sử nữa, mà là một hình ảnh ẩn dụ mang tính biểu tượng – thần học.

Đức Giêsu, theo chương trình của Thiên Chúa, đang thực hiện cuộc hành trình của Người, đang đi trên con đường của Người (x.1,2). Đỉnh điểm của cuộc xuất hành của Người sẽ là biến cố tử nạn – phục sinh. Xưa, hoang địa là nơi chốn của cuộc xuất hành của dân Israel đi về đất hứa. Nay, “hoang địa” cũng là nơi chốn diễn ra cuộc hành trình hướng đến biến cố tử nạn – phục sinh của Đức Giêsu. Sự kiện Người sẽ ở trong hoang địa bốn mươi ngày (c.13) củng cố cho cách hiểu này. Mà nếu thế thì “hoang địa” nói đây chính là cái xã hội – tôn giáo Do Thái, trong đó Đức Giêsu sống và hoạt động cho đến khi Người bước vào cuộc tử nạn – phục sinh của Người. Chính Thần Khí đẩy Người đi vào trong cái xã hội – tôn giáo đó.
Nhưng hoang địa, tự bản chất, là hình ảnh của một nơi chốn tách biệt khỏi xã hội. Trong trường hợp của Đức Giêsu, sự tách biệt này, vì thế, phải được hiểu theo nghĩa của sự tách biệt về các nguyên tắc và giá trị. Đức Giêsu ở trong “hoang địa”, tức là Người tuyệt đối không chia sẻ các giá trị giả dối và sai lầm của cái xã hội - tôn giáo Do Thái và không chấp nhận những nguyên tắc và giá trị đó. Có một sự cắt đứt, một sự đoạn tục, một sự tách lìa giữa Đức Giêsu với các nguyên tắc và giá trị đó. Tính chất của ẩn dụ “hoang địa” cho phép chúng ta hiểu như thế.

Bắt đầu Mùa Chay thánh, chúng ta cũng đang được Thần Khí đẩy vào “hoang địa” để thực hiện cuộc xuất hành của chính mình và của cộng đoàn mình. Đối với tuyệt đại đa số chúng ta, đây sẽ không phải là một hoang địa theo nghĩa nơi chốn địa dư, mà là theo nghĩa biểu tượng – thần học. Đó là nơi chúng ta thực hiện cuộc hành trình đời mình như dân Israel xưa thực hiện cuộc hành trình đi từ cõi nô lệ Ai Cập về miền đất hứa “chảy tràn sữa và mật”. Đó là nơi xảy đến cuộc xuất hành của chúng ta, cuộc xuất hành đưa chúng ta vào trong đất hứa là Nước Thiên Chúa. Hoang địa, theo nghĩa đó, là chính môi trường sống và làm việc cụ thể của chúng ta trong hiện tại.
Nhưng “hoang địa” mà Thần Khí đang đẩy chúng ta vào cũng có nghĩa là một chốn tách biệt, như xưa đã xảy ra với Đức Giêsu. Trong ý nghĩa sự “đi vào hoang địa” là biểu tượng cho một sự tách biệt, một sự giữ khoảng cách đối với những nguyên lý và giá trị sai lầm đang chi phối xã hội, thì việc Đức Giêsu vào hoang địa, như chúng ta đã nói, là việc Người không chấp nhận hành xử theo các nguyên lý và giá trị sai lầm của xã hội và tôn giáo Do Thái đương thời. Đối với chúng ta cũng vậy. Thần Khí đang đẩy chúng ta vào hoang địa, cách riêng là trong Mùa Chay thánh này, tức là Thần Khí thúc đẩy chúng ta không thỏa hiệp và không sống theo những nguyên lý và giá trị tầm thường thế gian, ngay trong những môi trường xã hội và môi trường làm việc hiện tại của chúng ta: những ý thức hệ sai lạc, những giá trị ảo của chủ nghĩa hưởng thụ, hay những não trạng duy vật và duy khoái lạc...

Đức Giêsu đã làm theo sự thúc đẩy của Thần Khí. “Người ở trong hoang địa bốn mươi ngày, chịu Satan cám dỗ, sống giữa loài dã thú, và có các thiên sứ hầu hạ Người” (c.13).
Trong Cựu Ước, con số “bốn mươi” thường được dùng để chỉ một giai đoạn trong đó diễn ra một tình trạng thuần nhất nào đó như thời hòa bình hay thời của một triều đại... Thí dụ trong Tl 3,11; 5,31; 8,28; 13,1; 2V 8,17; 12,2 chẳng hạn. Một điều chắc chắn là con số bốn mươi luôn ám chỉ đến bốn mươi năm con cái Israel đi trong hoang địa, tức là giai đoạn họ đi từ chốn nô lệ Ai Cập về đất hứa (x. Ds 14,33.34; 33,38; Đnl 1,3; 2,7; 29,4; Gs 14,17; Tv 95,10; Am 2,10; 5,25...). Vì thế, chi tiết “Đức Giêsu ở trong hoang địa bốn mươi ngày” rõ ràng mang giá trị biểu tượng, chỉ về cuộc xuất hành của Người, tức là cuộc hành trình đưa Người đi đến đỉnh điểm là cuộc tử nạn và phục sinh của Người.

Trong “hoang địa”, Đức Giêsu chịu Satan cám dỗ suốt bốn mươi ngày. “Satan” là một hạn từ Hípri. Thoạt kỳ thủy, hạn từ này về căn bản có nghĩa là một kẻ chống đối hay một đối thủ chuyên cáo tội trong các vụ án (x. Tv 109,6; 1Mcb 1,36). Từ đó nó có nghĩa chỉ về  một thành viên của triều đình thiên thai, chuyên cáo tội con người trước mặt Thiên Chúa (x. G 1,6-12; 2,1-7). Vào thời Đức Giêsu, người ta không còn nghĩ Satan là một thành viên của triều đình thiên thai nữa, nhưng có thể hiểu như là một tinh thần thù nghịch của con người, luôn tìm cách đẩy con người đến chỗ sai lạc và luôn muốn tàn phá công trình của Thiên Chúa. Trong cái xã hội Do Thái được ẩn dụ trong bài Tin Mừng bằng hình ảnh “hoang địa”, thì Satan, trong vai kẻ cám dỗ Đức Giêsu, chính là những thế lực/nhân vật liên tục tìm cách làm cho Đức Giêsu phản bội lại chương trình của Thiên Chúa về Người. Trong Mc 8,33 Đức Giêsu sẽ gọi Phêrô là Satan vì ông ta ngăn cản Đức Giêsu thực hiện chương trình của Thiên Chúa và muốn Người đi theo “tư tưởng của loài người”. Trong cuộc đời hoạt động công khai của Người trước khi đi vào cuộc tử nạn – phục sinh, giữa “hoang địa” là xã hội và tôn giáo Do Thái, Đức Giêsu sẽ phải liên tục đối diện với những thế lực/nhân vật như thế. Bài Tin Mừng hôm nay gọi là “Người chịu Satan cám dỗ”.
Loại “cư dân” thứ hai trong “hoang địa” mà bài Tin Mừng hôm nay nhắc đến, là các loài dã thú: Đức Giêsu “sống giữa loài dã thú”. Thông thường, các loài dã thú được hình dung trong đặc điểm hung dữ của chúng: chúng tấn công và thậm chí ăn thịt con người. Vì thế, trong các sách ngôn sứ, ẩn dụ dã thú thường được dùng để nói về tai ương, ví dụ trong Is 18,6; 56,9; Gr 7,33; 12,9; 16,4; Ed 32,4; 34,5. Nhưng rõ ràng đó không phải là trường hợp của Mc 1,13. Có một bản văn ngôn sứ nói về tình trạng tốt lành của việc sống chung với dã thú, là bản văn Is 11,6-9. Nhưng nếu chúng ta chấp nhận cách hiểu ẩn dụ “hoang địa” ở đây ám chỉ xã hội Do Thái đương thời và “các loài dã thú” là một thành phần trong đó, thì cũng rõ ràng là không thể hiểu Mc 1,13 dựa theo Is 11,6-9 được.

Trong số các bản văn Cựu Ước sử dụng ẩn dụ dã thú, đáng chú ý là Đn 7. Trong đó, các dã thú là ẩn dụ chỉ những quyền lực chính trị kinh khủng của các đế quốc ngoại giáo. Hiểu như là một thành phần trong khung cảnh xã hội Do Thái (“hoang địa”), theo nghĩa tương tự như trong Đn 7, các loài dã thú ở đây là ẩn dụ của những thế lực và ảnh hưởng chính trị khác nhau của các phong trào và các ý thức hệ khác nhau. Đó là những thứ quyền lực chính trị - xã hội – tôn giáo áp bức, hay ít là gây sức ép, trên những con người đang sống trong xã hội đó. Chúng tác động trên con người, từ bên ngoài; và chúng sẽ thi thố sức mạnh của mình, ít là về mặt thể lý, để đẩy Đức Giêsu đến cái chết thảm thương trên thập giá sau này. Đức Giêsu “sống giữa loài dã thú” tức là chấp nhận làm đối tượng mà các thứ quyền lực ấy nhắm đến và không ngừng tìm cách tác động, gây ảnh hưởng.
Loại “cư dân” thứ ba trong “hoang địa” mà Mc 1,13 nói đến là các “thiên sứ” (aggelos). Trong Tin Mừng Mc, lần đầu tiên “thiên sứ” được nói đến, chính là ở 1,2. Và hình ảnh của aggelos đó được thể hiện một cách cụ thể - lịch sử nơi Gioan Tẩy Giả (1,4). Như thế, trong Mc, “aggelos” vẫn có thể là con người chứ không nhất thiết phải là hữu thể thiêng liêng. Nếu chúng ta chấp nhận cách giải thích phía trên về ba hình ảnh “hoang địa”, “Satan” và “dã thú”, thì chúng ta cũng sẽ dễ dàng chấp nhận cách giải thích, theo đó, ẩn dụ “các thiên sứ” ở đây ám chỉ một nhóm người nào đó trong cuộc đời hoạt động công khai của Đức Giêsu. Nhóm này có chức năng cộng tác với Đức Giêsu, kể cả việc phục vụ Người. Vậy, có thể hiểu “các thiên sứ” ở c.13 là hình ảnh ẩn dụ của những con người gắn bó với Đức Giêsu, giúp đỡ Người khi Người thi hành sứ vụ và cộng tác với Người trong công cuộc của Người. Đức Giêsu chấp nhận sự phục vụ của các thiên sứ trong hoang địa có nghĩa là người chấp nhận sự phục vụ, giúp đỡ và cộng tác của những con người đó trong khi Người thực hiện chương trình cứu độ của Thiên Chúa.

Tóm lại, trong phần đầu bài Tin Mừng hôm nay, tác giả Mc đã sử dụng những hình ảnh ẩn dụ rất phong phú và sâu sắc. Tất nhiên, cách giải thích vừa được trình bày vẫn chỉ là một trong những cách hiểu về những hình ảnh được tác giả Mc sử dụng. Nhưng dù sao, trong khung cảnh của phụng vụ Chúa Nhật I Mùa Chay hôm nay, cách hiểu này gợi ý cho chúng ta nhiều suy tư thiết nghĩ là rất đáng chú ý, liên quan đến cuộc sống và việc thi hành sứ mạng của các Kitô hữu chúng ta. Chúng ta được mời gọi hãy để cho chính Chúa Giêsu (như được khắc họa trong bài Tin Mừng hôm nay) nói với chúng ta về những gì chúng ta phải sống cách đặc biệt trong Mùa Chay thánh này.
“Thần Khí đẩy Người vào hoang địa. Người ở trong hoang địa bốn mươi ngày, chịu Satan cám dỗ, sống giữa loài dã thú, và có các thiên sứ hầu hạ Người” (Mc 1,12-13).
Tác giả bài viết: Lm. Giuse Nguyễn Thể Hiện, DCCT

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét